Cái tên nào nghe cũng đúng, mỗi tên diễn tả một khía cạnh khác nhau của
cùng một cảm giác.
Vị bác sĩ trị liệu mà anh đã gặp cuối tuổi thiếu niên sau một cơn hoảng
loạn – vị bác sĩ đã nói với anh rằng cơn hoảng loạn ấy phát sinh từ lòng thù
hằn sâu sắc mà anh đã nung nấu đối với bố anh và việc anh không có những
cảm xúc có ý thức trước bố mình là bằng chứng cho thấy tiềm ẩn trong cảm
xúc đó là sức mạnh và sự tiêu cực – cũng vị bác sĩ ấy một ngày kia đã tâm
sự với anh về một điều mà ông cho là mục đích của cuộc đời.
“Mục đích của cuộc đời là gần gũi hết mức có thể với những người khác.”
Ông nói ra câu đó một cách giản đơn đến sửng sốt, như thể đang chỉ ra rằng
mục đích của xe tải là để vận chuyển vậy.
Vào một dịp khác ông bộc bạch, cũng bằng cái giọng tỉnh rụi ấy, một hệ
quả: “Một cuộc đời cô lập là một cuộc đời uổng phí.”
Ở cái tuổi 17 khi ấy, Gurney không rõ vị bác sĩ đang nói gì. Nghe có vẻ
sâu xa thật, nhưng chiều sâu của nó rất mờ ảo, và anh không thấy được gì
trong đó. Đến 47 tuổi, anh vẫn chưa hoàn toàn hiểu thấu – ít ra là chưa hiểu
theo cách anh hiểu về mục đích của xe tải.
Quên mất phải đến phòng chứa đồ, anh trở xuống bếp. Đi vào căn bếp từ
lối cầu thang tối mịt, anh thấy căn phòng sáng rực rỡ. Mặt trời lúc này đã
nằm hẳn bên trên đám cây trên một bầu trời không mây, chiếu xuyên qua
những cánh cửa kiểu Pháp nằm ở hướng Đông Nam. Đồng cỏ đã bị đợt tuyết
mới biến dạng thành một tấm gương phản chiếu chói lóa, hắt ánh trắng sáng
lên trên mọi ngõ ngách của căn phòng vốn ít khi được soi rọi.
“Cà phê của anh xong rồi,” Madeleine nói. Cô đang mang một tờ báo vo
tròn và một ít củi đóm đến lò củi. “Ánh sáng thật là huyền diệu. Như âm
nhạc vậy.”
Anh mỉm cười gật đầu. Đôi khi anh ghen tị với khả năng dễ bị mê hoặc
của cô trước những thứ lấp lánh vụn vặt của tự nhiên. Tại sao, anh tự hỏi,
một người phụ nữ như thế, một con người hăng hái như thế, một người có óc
thẩm mỹ bẩm sinh đáng ngưỡng mộ như thế, một người phụ nữ gắn kết gần
gũi với tố chất huy hoàng của vạn vật như thế, lại kết hôn với một thám tử