khúc, chạy ra một thung lũng sông đẹp như tấm bưu thiếp, nơi một số nông
trại cũ kỹ đang tìm con đường đổi mới để tồn tại. Abelard là một trong
những nông trại như vậy. Nằm kẹp giữa ngôi làng Dillweed và con sông gần
bên, nông trại này chuyên sử dụng các biện pháp hữu cơ để tạo nên các loại
‘rau quả không có thuốc trừ sâu’ bán cho tiệm tạp hóa Abelard, cùng với
những mẻ bánh mì nóng hổi, phô mai vùng Catskills, và cà phê thượng hạng
– thứ cà phê Gurney đang cần ngay lúc này khi anh tấp xe vào một trong
những chỗ để xe nhỏ bẩn thỉu trước hàng hiên võng xuống trước cửa tiệm.
Phía sau cánh cửa là một không gian có trần nhà cao vút, một dãy bình cà
phê đang hừng hực sôi trên bức tường bên phải. Gurney đi về hướng ấy. Anh
rót đầy bình 500ml, miệng mỉm cười trước mùi cà phê đậm đà – ngon hơn
cà phê Starbucks mà chỉ bằng nửa giá.
Không may thay, cái ý nghĩ về Starbucks kéo theo hình ảnh một ẩm khách
trẻ thành đạt của Starbucks, và ngay lập tức nó làm anh nhớ tới Kyle, tâm trí
anh chợt nhói lên. Đó là phản ứng dễ hiểu của anh. Anh hoài nghi nó phát
sinh từ mơ ước viển vông của anh về một đứa con trai biết suy nghĩ rằng
một thám tử tài trí là một người đáng nể trọng, mơ ước về một đứa con trai
mong mỏi sự bảo ban của anh hơn Kyle. Kyle – bất trị và bất khả xâm phạm
trong chiếc Porsche đắt tiền đến phi lý mua bằng đồng lương ở phố Wall cao
ngất đến phi lý ở cái tuổi 24 trẻ trung đến phi lý. Dẫu sao, anh vẫn nợ anh
chàng ấy một cuộc điện thoại, dù những gì thằng nhóc ấy muốn nói chỉ là kể
về chiếc đồng hồ Rolex mới nhất của nó hay chuyến trượt tuyết ở Aspen.
Gurney trả tiền cà phê rồi trở lại xe. Khi anh đang nghĩ về cuộc gọi sắp
thực hiện thì điện thoại đổ chuông. Anh không thích những chuyện trùng
hợp và nhẹ nhõm khi nhận ra người gọi không phải Kyle mà là Mark
Mellery.
“Tôi vừa mới nhận thư ngày hôm nay. Tôi gọi cho anh ở nhà, nhưng anh
ra ngoài mất. Madeleine cho tôi số di động của anh. Hy vọng anh không
phiền khi tôi gọi.”
“Có chuyện gì vậy?”