nhãng.
Vừa hắng giọng, anh vừa xoay người về phía Madeleine ở góc kia phòng,
rồi nói hơn cả sự háo hức vốn có, “Ta lo vụ xe kéo trước khi trời tối được
không?”
Madeleine rời mắt khỏi cuốn sách nhìn lên. Sự hân hoan giả tạo trong
giọng anh, dù khiến cô thấy khó chịu hay lộ liễu, cô cũng không tỏ thái độ.
Gắn máy thổi tuyết mất một giờ đồng hồ nâng nhấc, đập nện, kéo giội, bôi
trơn và chỉnh sửa – sau đó Gurney tiếp tục bỏ ra một giờ nữa bửa củi để
nhóm lò trong khi Madeleine chuẩn bị bửa tối gồm canh bí và sườn lợn om
nước táo. Rồi họ nhóm lửa, ngồi cạnh nhau trên chiếc sô pha trong căn
phòng khách ấm cúng nằm sát bếp, và chìm vào trạng thái an bình uể oải
luôn theo sau công việc cực nhọc và bữa ăn ngon.
Anh khao khát muốn tin rằng những ốc đảo nhỏ nhoi yên bình này báo
trước sự trở lại của mối quan hệ thuở nào giữa hai người, muốn tin rằng
những lần lẩn tránh và xung đột về cảm xúc trong những năm gần đây vì
một lý do nào đó chỉ là tạm thời, nhưng đó lại là một niềm tin anh thấy khó
có thể duy trì. Ngay cả giờ đây, hy vọng mong manh này đang được thay
thế, từng phần một, từng khoảnh khắc một, bằng thứ suy nghĩ mà đầu óc của
một thám tử như anh thấy sảng khoái hơn khi tập trung vào – những suy
nghĩ về cuộc gọi được mong chờ từ Charybdis và về thứ công nghệ hội đàm
từ xa cho phép anh nghe trộm.
“Một đêm hoàn hảo để nhóm lửa,” Madeleine vừa nói vừa dựa nhẹ vào
người anh.
Anh mỉm cười và cố gắng tập trung trở lại vào ngọn lửa đỏ hồng và hơi
ấm mềm mại, giản dị của cánh tay cô. Tóc cô có một mùi hương thơm phức.
Anh thoáng mường tượng cảnh mình bị đắm đuối mãi mãi trong cái mùi
hương ấy.
“Ừm,” anh đáp. “Hoàn hảo lắm.”
Anh nhắm mắt lại, mong mỏi sự khoan khoái của khoảnh khắc này sẽ
trung hòa bao nhiêu năng lượng trí óc vẫn luôn dồn đẩy anh vào việc giải mã