“Thất vọng cái gì chứ? Anh không phải là anh trai em sao?"
Hugh lắc đầu buồn bã đáp:
“Ta cầu trời chứng tỏ được điều này, cầu cho người khác tìm ra được
những điểm giống mà mắt ta không thấy được. Trời ơi, ta sợ rằng bức thư
ấy là thật.”
“Thư nào?”
“Một bức thư đến từ hải ngoại, chừng sáu hay bảy năm trước. Thư báo
anh trai ta tử trận.”
“Dối trá! Hãy gọi cha ra, cha sẽ nhận ra ta.”
“Người ta chẳng thể nào gọi dậy người đã chết được.”
“Chết ư?” Giọng Miles chùng xuống, môi chàng run run. “Cha ta đã
chết ư? Ôi chao, tin này quá đỗi nặng nề. Nửa phần vui trong ta đã héo rũ
mất rồi. Vậy thì hãy để ta gặp anh Arthur của ta – anh ấy sẽ nhận ra ta; anh
ấy sẽ nhận ra ta, an ủi ta.”
“Anh ta cũng chết rồi.”
“Xin Chúa nhân từ cứu vớt con, kẻ khốn khổ này! Chết – cả hai người
đều chết rồi – hòn vàng thì mất, hòn đất thì còn! Ôi chao! Ta van xin mày
thương xót, đừng nói là công nương Edith...”
“Cũng chết ấy hả? Không, cô ấy vẫn sống.”
“Vậy thì tạ ơn Chúa, cõi lòng ta vui trở lại rồi! Mau lên, em trai, cho
nàng ra gặp ta đi! Giả như nàng nói rằng ta không phải chính ta – nhưng
nàng sẽ không nói thế đâu. Không, không, nàng sẽ nhận ra ta, ta thực ngốc
mới nghi ngờ điều đó. Hãy đưa nàng lại đây, đưa thêm đám người hầu cũ
nữa; bọn họ cũng sẽ nhận ra ta.”
“Đám ấy chết hết rồi, chỉ còn lại năm đứa: Peter, Halsey, David, Bernard
và Margaret.”
Nói rồi, Hugh rời khỏi căn phòng. Miles đứng ngẩn ngơ hồi lâu, rồi bắt
đầu đi đi lại lại, miệng lẩm bẩm:
“Năm kẻ bất lương thì sống sót, còn hai mươi hai người trung thành,
thực thà thì chết ráo. Quá là kỳ quặc!”
Chàng cứ tiếp tục đi tới đi lui, miệng lẩm bẩm một mình, hoàn toàn
quên khuấy mất nhà vua. Lúc bấy giờ vua nghiêm trang nói, giọng pha nỗi