đứa bé ngủ lại; rồi bà bò ra xa, ảo não cảm thương trước kết quả khủng
khiếp của phép thử. Bà cố tin rằng bệnh điên của Tom đã xóa bỏ cử chỉ
quen thuộc này của con trai bà, nhưng chẳng cách nào xuôi theo được.
“Không thể nào,” bà nói, “đôi tay nó không hề bị điên, chẳng thể nào từ bỏ
một thói quen cố hữu trong một khoảng thời gian ngắn ngủi như thế. Ôi,
ngày hôm nay của mình mới nặng nề làm sao!”
Dầu vậy, bà vẫn kiên trì nuôi hy vọng, như lúc trước từng ấp ủ nỗi nghi
ngờ. Không thể chấp nhận kết quả của phép thử, bà quyết thử lại một lần
nữa – lần thất bại vừa rồi có khi chỉ là ngẫu nhiên; vậy là bà lại làm đứa trẻ
giật mình thức giấc lần thứ hai, lần thứ ba, mỗi lần cách nhau một lát – kết
quả vẫn y hệt như lần đầu. Bà lê lết về chỗ ngủ, tê tái buồn đau, tự nhủ:
“Nhưng mình không thể từ bỏ con được – ôi không, mình không thể - thằng
bé chắc chắn là con mình rồi!”
Những lời đứt quãng của bà mẹ khốn khổ đã im bặt, những vết thương
của hoàng tử dần dà hết quấy rầy cậu, cuối cùng vì mệt mỏi rã rời, đôi mắt
cậu nhắm sụp lại thật yên bình. Giờ nối giờ trôi qua, cậu vẫn ngủ say như
chết. Đã bốn hay năm tiếng đồng hồ trôi qua. Ý thức thằng bé dần nhường
chỗ cho vô thức. Bất thần giữa lúc nửa mơ nửa tỉnh, cậu lẩm bẩm:
“Ngài William!”
Một lúc sau lại tiếp:
“Ơ này, ngài William Herbert! Phiền ông lại đây mà nghe về giấc mơ lạ
lùng nhất chưa từng... Ngài William! Không nghe ta nói gì sao? Ôi chao, ta
cứ nghĩ ta đã biến thành một tên ăn mày rồi, và... Kìa các ngươi! Lính đâu!
Ngài William! Gì thế này! Không có quan hầu nào chầu chực đó hả? Trời
ơi. Sẽ khó khăn lắm nếu mà...”
“Em đau ở đâu?” Một giọng nói dịu dàng vang lên cạnh chú. “Em đang
gọi ai vậy?”
“Ngài William Herbert. Ngươi là ai?”
“Chị ấy hả? Chị còn có thể là ai khác ngoài chị Nan của em? Ôi, Tom ơi,
chị quên khuấy đi mất! Em bị điên mà, khốn khổ thay em lại bị điên, đáng
lẽ chị đừng bao giờ tỉnh giấc để khỏi nhớ lại điều này. Nhưng em hãy giữ