Bọn rái cá con lớn nhanh, và chúng đã lấy cá từ tay tôi. Mon-
a-noo thích cua ốc hơn, nó ngậm viên đá vào miệng. Đoạn nó
nằm ngửa ra, để con sò trên ngực. Nó đập con sò cho đến khi vỏ
sò vỡ ra.
Mấy con rái cá cũng làm như thế. Tôi xem chúng làm không
ngăn được tiếng cười to. Dường như chúng làm thế để con tôi
vui. Nhưng tôi không biết bọn rái cá ăn sò ốc bằng cách nào.
Mùa hè năm đó, tôi vui chơi với Mon-a-nee và gia đình của
nó. Kể từ sau đó, tôi không bao giờ giết rái cá nữa. Tôi dùng áo
khoác bằng da rái cá cũ, không bao giờ làm cái mới nữa. Tôi
không bao giờ giết chim, giết chó và hải tượng. Dân tộc chúng
tôi giết chim chóc và thú vật một cách rất vô tư. Nhưng chúng
đều là bạn của tôi. Và tôi hiểu rằng thế giới sẽ tốt đẹp hơn khi có
chúng sống trong đó!
Chân của con chim hải âu dần khỏe hơn. Nó có thể bay khi tôi
lấy đi mấy que bó chân. Một ngày nọ nó bay đến chỗ các con
chim hải âu khác nên trên dốc đá. Tôi leo lên chỗ đó, trên đó có
nhiều trứng chim.
Có hàng mấy trăm con chim ở đây, tôi không tìm ra con chim
của tôi.
Bọn Aleut không bao giờ trở lại đảo. Mỗi mùa hè tôi chờ đợi
họ. Và mỗi mùa xuân, tôi bắt sò ốc và phơi khô. Tôi để chúng
vào trong hang nơi chiếc xuồng. Tôi cũng cất giữ cây giáo mới,
cung tên cũng ở nơi đây. Nếu bọn đi săn trở lại, tôi đã sẵn sàng.
Bọn rái cá cũng sợ người Aleut. Cứ mùa hè đến con rái cá già
lại nhớ đến cây giáo của người Aleut nên dẫn đàn đi nơi khác.
Chúng lội đến các bãi tảo ở Đá Dựng. Chúng ở đây cho đến khi có
những cơn dông của mùa đông.
Đến một mùa hè, bọn rái cá không đi nữa. Tôi biết không một
con nào trong bọn chúng nhớ đến bọn sẵn bắt. Tôi cũng hay
nghĩ đến họ, ngay cả những người da trắng nữa.