Bảo Thoa đẹp, đức hạnh, nết na theo đúng nếp nhà phong kiến. Bảo Ngọc cũng mến Bảo
Thoa, gần nàng, anh chàng đôi lúc cũng thấy xiêu xiêu, quả có như lời Lâm Đại Ngọc
“gần cô chị thì quên khuấy cô em!” Nhưng rồi dần dần, Bảo Ngọc chỉ yêu có Đại Ngọc
thôi. Đại Ngọc kiều diễm, yếu đuối, là một tâm hồn dễ cảm xúc, một tâm hồn nhạy cảm
và phong phú đó là một tâm hồn thơ đích thực; và đó là điều mà họ gặp nhau. Quan trọng
hơn, là trong khi cả nhà chờ mong Bảo Ngọc học giỏi thi đỗ, làm quan giữ nếp nhà…, thì
Bảo Ngọc lại chán ngấy cái con đường mòn nhàm chán đó, và người hiểu anh duy nhất là
Đại Ngọc. Bảo Ngọc, chàng trai được nhốt trong cái lồng kính quý tộc đầy cao lương
gấm vóc, anh ta được người ta dùng gia giáo, thi giáo, lễ pháp… để ràng buộc theo con
đường vạch sẵn. Giả Bảo Ngọc bị mất tự do, và anh ta cảm thấy sâu sắc điều đó, nên lúc
nào anh ta cũng vùng vẫy tìm lối thoát, tìm cách phản kháng lại. Như một con chim khao
khát trời xanh rộng lớn bị nhốt vào cái lồng vàng chật hẹp, Giả Bảo Ngọc sống không
yên ổn. Anh lục lọi sách vở, đi vào triết học cổ, đi vào “tham thiền ngộ đạo”… nhưng
những cái đó không cung cấp được cho anh một vũ khí tư tưởng nào để tự giải phóng!
Mà thực ra, thì anh cũng lẩn quẩn, loanh quanh; anh ta là một sản phẩm đầy mâu thuẫn
của một xã hội cũng đang chứa đầy mâu thuẫn, một xã hội đang tìm lối ra nhưng không
có lối ra. Rốt cuộc, anh ta tỏ thái độ hoài nghi những gì “thánh hiền” đã viết, đã soạn, cho
đó là “soạn bậy”, là “bịa”, là “nói tầm bậy”. Đối với đạo đức phong kiến mà cái cao nhất
là “tôi trung con hiếu”, “sát thân thành nhân”, anh ta dám nói những lời “cách mệnh”:
“Những bọn mày râu dơ bẩn, chỉ biết “quan văn chết vì lời can gián, quan võ chết vì
đánh giặc”, là hai cái chết của kẻ đại trượng phu, thành ra chỉ làm rối lên, nào có biết
đâu có vua ngu mới có bầy tôi chết vì lời can gián; chỉ lo ra công đánh giặc, liều mình hy
sinh, tương lai sẽ bỏ nước cho ai”. Thật là lời lẽ của kẻ “đại nghịch vô đạo”. Tất nhiên,
nói cho công bằng, đó là một đôi ý nghĩ đột xuất của anh chàng này, còn như bình
thường, anh ta vẫn phải nép mình trong lồng cũi tuân phục “di huấn thánh nhân”. Trong
hoàn cảnh đó, Lâm Đại Ngọc đã đến. Họ đã đến với nhau không dễ dàng. Đại Ngọc vì
gia cảnh đến ở nhờ trong phủ họ Giả, tuy là cháu ngoại đấy, nhưng vẫn bị Giả mẫu xem
là “người ngoài”: “nữ nhi ngoại tộc”. Cái mặc cảm “ăn bám ở nhờ” luôn luôn làm nàng
đau khổ nàng vốn là người nhiều tự ái, là người nhạy cảm, khó hòa hợp với chung quanh
và do đó cô đơn. Tình cảnh của nàng còn bi đát hơn Bảo Ngọc nhiều, vì nàng là con gái,
là phận ở nhờ, mà trong cái xã hội ghê khiếp ấy, thì nàng chẳng là cái gì cả, nàng chỉ là
một cánh bèo dạt, một cánh hoa rơi! Cho nên nàng thương hoa, khóc hoa, chôn hoa, cho
nên nàng luôn buồn thương vô hạn. Tâm hồn nàng như một sợi tơ đàn mảnh mai, bất kể
một giọt mưa thu hay tơ liễu bay đều âm vang một điệu buồn đứt ruột! Cái yếu đuối, cái
“đa sầu đa cảm” của nàng cũng là một nét tính cách riêng nhưng xuất phát từ những điều
kiện của thời đại. Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc đã đến với nhau như thế và đã đến với
nhau rồi, hiểu lòng nhau rồi, họ vẫn sống những ngày tháng không yên. Trong tình yêu
này, họ chưa được hưởng bao nhiêu hạnh phúc; chưa nếm mật ngọt tình yêu, họ đã linh
cảm thấy mật đắng của đời! Họ luôn luôn bị bủa vây trong trùng điệp của mạng lưới
phong kiến. Họ không phải là người quyết định được tình yêu của mình. Cuối cùng, Giả
mẫu và bọn phu nhân trong phủ họ Giả đã quyết định! Họ đã chọn Tiết Bảo Thoa cho
Bảo Ngọc. Và một khi đã chọn, họ đã nhẫn tâm theo kế “đánh tráo” của Phượng Thư.
Bảo Ngọc cứ yên trí là “cưới em Lâm”, hóa ra lúc giở khăn che mặt, lại là Bảo Thoa; Bảo