lưu của tình yêu. Sự thay đổi trong số phận của chúng tôi đã đẩy gấp đám
cưới của tôi, và khi dọn đến bốn căn phòng ở Pell Street trong khu phố hạ
lưu ở San Francisco thì tôi đã là một người đàn bà có chồng.
Và trong tất cả những thứ còn lại, có cái này: tôi đã làm cho Ernest
sung sướng. Tôi đã dấn thân vào cuộc đời bão táp của anh, không phải để
quấy rầy anh thêm, mà để anh có những phút sống thanh thản, êm đềm. Tôi
đã đem lại được sự nghỉ ngơi cho anh. Đó là cái báu vật duy nhất mà tôi
không mất. Đem lại quên lãng và ánh sáng vui tươi cho những con mắt mệt
mỏi tội nghiệp của anh: còn có niềm vui nào lớn hơn và có thể làm cho tôi
hãnh diện hơn! Ôi những con mắt mệt mỏi thân yêu! Ít có ai làm việc say
mê bằng anh và suốt đời anh, anh đã làm việc say mê cho người khác. Đó là
tất cả cái lớn lao của anh khi anh còn sống làm người. Ernest là một nhà
nhân đạo chủ nghĩa, một người của tình yêu. Tinh thần anh là tinh thần của
người ra trận. Thân thể anh là thân thể của võ sĩ và thiên tài anh là thiên tài
của chim đại bàng. Nhưng đối với tôi, anh tế nhị và dịu dàng như một nhà
thơ. Chính anh cũng là một nhà thơ. Anh là một ca sĩ trên hành động. Suốt
đời anh, anh hát bài hát của con người. Anh làm như vậy vì lòng yêu
thương vô hạn đối với con người. Vì con người, anh đã hiến cả đời anh, và
anh đã hi sinh cũng như đức Chúa đã hi sinh trên thánh giá.
Và làm tất cả những việc đó, anh không hề hi vọng vào một sự đền bù
nào của tương lai. Trong quan niệm của anh về sự vật, không có cuộc đời
tương lai. Ở trong anh chói ngời sự bất tử, nhưng anh lại không muốn thành
bất tử. Và đó là chỗ mâu thuẫn của con người anh. Tâm hồn nồng cháy của
anh bị chế ngự bởi triết học lạnh lùng và khô khan của nhất nguyên luận
duy vật. Tôi vẫn thường bác lập luận của anh và nói với anh rằng tôi đo sự
bất tử của anh bằng đôi cánh của tâm hồn anh: và tôi phải sống những thế
hệ không cùng mới nhận định được đúng tầm rộng lớn của nó. Những lúc
ấy, anh chỉ cười; anh đưa hai cánh tay ra ôm lấy tôi và gọi tôi là nhà siêu
hình học dịu hiền của anh; vẻ mỏi mệt biến đi và tôi thấy mắt anh tràn ngập
ánh sáng của tình yêu, bản thân thứ ánh sáng đó cũng là dấu hiệu mới mẻ và
đầy đủ báo trước sự bất tử của anh.
Anh còn gọi tôi là nhà nhị nguyên luận, và giải thích cho tôi rõ Kant,
bằng lí tính thuần tuý, đã thủ tiêu lí tính để tôn thờ Thượng đế như thế nào.