có gió chẳng có cơn gió nào đến”.
“Một lão phù thuỷ chính hiệu” – Mulhall nói.
“Mớ trân châu ấy không mang lại may mắn đâu” – Tai-Hotauri buột
miệng nói, đầu hắn lắc lư tỏ vẻ sợ hãi. “Lão nói là lão muốn bán. Cả đống
tàu buồm lũ lượt kéo đến. Lúc ấy lão mới làm bão lớn, rồi các ngài xem, ai
nấy đều sẽ hết đời. Thổ dân không ai là không nói thế”.
“Giờ đương mùa bão” - thuyền trưởng Warfield phá lên cười giọng bực
dọc. “Lý của họ chẳng sai sự thực là mấy. Ngay lúc này đang có một cái
chẳng lành sắp xảy ra: nếu chiếc Malahini ở cách xa đây ngàn dặm tôi mới
thấy yên lòng được”.
“Lão quả có hơi điên” – Grief kết luận. “Tôi đã từng tìm cách dò quan
điểm của lão. Tư tưởng của lão, xem ra thật hỗn độn. Trong suốt mười tám
năm, lúc nào lão cũng chỉ nghĩ đến Armande. Lão hầu như tin tưởng rằng
nàng vẫn còn sống chưa ở Pháp về. Đó là một trong những lý lẽ khiến lão
khư khư giữ chắc mớ ngọc trai. Không lúc nào là lão không ghét cay ghét
đắng người da trắng. Lão nhớ mãi rằng họ đã giết nàng, mặc dầu nhiều lúc
lão quên bẵng là nàng đã chết”.
“Ê, gió của anh đi đâu rồi?”
Mấy cánh buồm trên đầu họ vắng gió chùng xuống. Thuyền trưởng
Warfield làu nhàu tỏ vẻ bực dọc. Lúc nãy có gió mà trời đã oi nồng, bây giờ
vắng gió, hơi nóng hầu như ngột ngạt. Mồ hôi tuôn thành dòng trên mặt họ;
thỉnh thoảng, hết người này lại đến người kia hít những hơi dài, như cố lấy
thêm không khí mà không biết.
“Lại có gió đấy – xoay thêm tám nấc nữa. Kéo ngang cần căng buồm!
Lẹ lên!”.
Đoàn thuỷ thủ Kanaka hấp tấp theo lệnh thuyền trưởng và trong năm
phút, chiếc tàu buồm lao thẳng vào cửa đầm và tiến lên được một đoạn
ngược dòng thuỷ triều. Cơn gió may lại tắt, để rồi lại từ trong hướng cũ thổi
đến buộc đoàn thuỷ thủ phải đổi lại cánh và cần buồm.
“Chiếc Nuhiva đã tới đấy rồi” – Grief nói. “Nó đã xả máy. Coi nó lướt
đi kìa?”
“Sắp sẵn rồi chứ?” - thuyền trưởng hỏi viên kỹ sư lai Bồ Đào Nha; đầu
và vai hắn nhô ra khỏi chiếc cửa sổ tròn nhỏ ở ngay trước phòng ngủ. Hắn