dặm còn nghe thấy tiếng hắn rú. Xưa nay tôi chưa từng thấy một gã thổ dân
nào lực lưỡng hơn hắn. Trong đám thợ lặn của tôi, có tới nửa tá chết vì
chứng chất đạm nổi phao trong máu. Và sẽ còn nhiều người phải chết -
nhiều người chết nữa”.
“Thôi xin cụ im miệng đi cho” - một thuyền trưởng cự Parlay. “Trời thế
này làm gì có bão”.
“Nếu tôi còn trẻ và khoẻ mạnh, tôi đã rút neo và chuồn cho lẹ” – lão
già cãi lại với giọng đã the thé vì tuổi tác. “Nếu tôi mà còn trai tráng, nhất là
khi còn thưởng thức được hương vị của rượu, thì tôi đã chuồn rồi. Nhưng
các bác thì không. Chẳng ai chịu ra về đâu. Tôi đã không khuyên các bác
nếu tôi biết là các bác muốn chuồn. Ai mà xua được đám diều hâu bay khỏi
cái xác thối trương chứ? Nào, các bác, ta uống thêm ly nữa chứ. A ha, vì
mấy viên ngọc trai khốn khổ mà bao người coi thường mọi hiểm nguy! Đây,
bao vưu vật còn nằm trơ ra đó. Mai nhất định bán đấu giá, đúng mười giờ.
Lão Parlay đã chịu đem của báu ra bán hết và bầy diều hâu đang xúm lại
quanh – Parlay nay đã già rồi, nhưng hồi trai tráng, còn cường kiện hơn bất
cứ một chú diều nào và sẽ được mục kích hầu hết bầy diều ấy đi đến chỗ tử
vong”.
“Có phải lão đúng là một quái vật quỉ quyệt không?” – viên quản lý của
chiếc Malahini rỉ tai Peter Gee.
“Nếu quả có bão thì đã sao?” - thuyền trưởng chiếc Dolly nói. “Đảo
Hikihoho chưa từng bị bão mà”.
“Như thế càng chắc chắn lần này thế nào nó cũng bị” - thuyền trưởng
Warfield trả lời một cách bi quan. “Tôi không tin ở đây được an toàn lắm”.
“Giờ thì ai ba hoa vậy?” – Grief trách.
“Tôi rất ân hận nếu phải mất bộ máy mới toanh trước khi mình được sử
dụng nó đã đời” -thuyền trưởng Warfield đáp giọng rầu rĩ.
Parlay nhanh nhẹn băng qua gian phòng chật ních những người đến chỗ
tường treo phong vũ biểu.
“Này, các bạn vàng, mau lại đây xem thử” – lão sung sướng reo lên. Gã
đứng gần nhất chăm chú nhìn chiếc ống thuỷ tinh. Trông gã hốt hoảng ra
mặt.