đây, ông nói quá lớn đến nỗi, trong bầu không khí yên lặng, tiếng ông làm
những người khác phải chối tai.
“Xương sườn lão dập hết rồi” – viên quản lý miệng nói tay sờ nắn hai
bên hông Parlay. “Lão còn thoi thóp nhưng cũng sắp ngoẻo rồi”.
Lão Parlay rên rỉ, động đậy một bên tay nhưng không sao cất nhấc lên
được và mở mắt. Mắt lão rực sáng khi nhận ra người quen.
“Quý ngài” – lão thì thầm qua hơi thở hổn hển “đừng quên… buổi bán
đấu giá… lúc mười giờ… dưới âm ty”.
Mắt lão nhắm nghiền và hàm dưới chỉ chực trễ xuống, nhưng lão gắng
sức chế ngự cơn quằn quại trong giây phút hấp hối để kịp buông ra tiếng
cười khành khạch diễu cợt cuối cùng.
Trên không và dưới biển cả, giông bão lại nổi dậy đùng đùng. Tiếng
gầm rít quen thuộc của cuồng phong lại đến với họ. Chiếc Malahini bị tạt
trúng vào một bên sườn và bị ép dí xuống trong khi nó lượn một vòng cánh
cung mà mấy chiếc neo buộc nó phải trôi theo. Chúng kéo nó trở vào hướng
giớ, nó giật mạnh rồi về thế thăng bằng. Chiếc chân vịt được đẩy cho chạy
và động cơ lại tiếp tục hoạt động.
“Hướng Tây Bắc” - thuyền trưởng Warfield hét về phía Grief khi ông
leo lên boong. “Tụt tám độ trong nháy mắt”.
“Bây giờ thì Narii không thể nào vượt qua được đầm mặn nữa” – Grief
nhận xét.
“Nếu thế thì hắn tất bị thổi dạt trở về phía chúng ta – không còn gì xui
xẻo hơn nữa.”
V
Sau khi tâm bão đi qua, phong vũ biểu bắt đầu lên. Sức gió cũng bớt
theo cùng một tốc độ. Khi giông tố chỉ còn là một cơn gió mạnh rú rít, chiếc
động cơ nẩy tưng lên trên không, rời khỏi bệ trong cơn quằn quại cuối cùng
của một tân lực mạnh bốn mươi mã lực, và đổ lăn sang một bên, một luồng
nước từ dưới hầm tàu phun lên tung toé bao trùm lấy nó và hơi nóng bốc
lên ùn ùn như mây.
Viên kỹ sư rên xiết vì hoảng sợ, nhưng Grief nhìn cái thân tàn của nó
với vẻ trìu mến rồi bước sang phòng ngủ bốc từng nắm bông gòn bỏ đi đưa
lên chùi sạch những vết dầu mỡ bám trên ngực và cánh tay.