Mặt trời đã mọc và cơn gió nồm hiền hoà nhất mùa hè đang thổi khi
ông lên tới boong, sau khi khâu lại vết nứt trên sọ một gã Kanaka và bó
chắc cánh tay của gã kia. Chiếc Malahini nằm sát bờ biển. Đằng mũi,
Hermann và đoàn thuỷ thủ đang kéo chão và gỡ mấy chiếc dây neo xoắn
vào nhau. Chiếc Papara và chiếc Tahaa đều đã mất dạng. Thuyền trưởng
Warfield dương viễn vọng kính quan sát riềm bên kia đảo san hô.
“Chúng chìm hết, chẳng còn cột buồm” – ông nói. “Không có động cơ
tai hại thế đấy. Chắc chúng bị dạt, băng ra ngoài đầm trước khi cơn bão tạm
ngưng thổi để đổi hướng”.
Trên bờ, ở nơi nền nhà cũ của Parlay, không còn một chút vết tích gì
chứng tỏ trước kia từng có ngôi nhà ở đó: Trong khoảng ba trăm thước, nơi
mà biển cả đã phá vỡ tràn vào, không còn lại một cây nào đứng vững hay cả
một thân cây bị đổ. Đây đó, về phía xa xa, còn trơ một cây dừa lẻ loi và có
rất nhiều cây đã bị xén đứt ngang thân.
Trong vòm lá của một cây dừa sống sót, Tai-Hotauri cả quyết gã trông
thấy một vật gì cử động. Trên tàu không còn sót một chiếc xuồng nào, và họ
nhìn theo gã bơi vào bờ, leo lên cây.
Khi gã lội trở về tàu, họ giúp một thiếu nữ thổ dân thuộc đám da nhân
của Parlay trèo qua lan can, nhưng trước hết nàng trao cho họ một chiếc rổ
méo mó đựng một ổ mèo con chưa mở mắt – chúng đã chết, trừ một con
còn yếu ớt kêu meo meo và lẩy bẩy bò quanh.
“Ô kìa” – Mulhall kêu lên “ai kia kìa”.
Họ thấy một người đàn ông tản bộ dọc theo bờ biển. Hắn ung dung
bước như thể đang dạo mát vào lúc ban mai. Thuyền trưởng Warfield
nghiến chặt răng lại. Đó là Narii Herring.
“Kìa, thuyền trưởng”. - Narii Herring lên tiếng chào khi hắn vừa tới
trước mặt họ. “Thuyền trưởng có cho phép tôi lên tàu và đãi tôi một bữa
điểm tâm không?”.
Mặt và cổ thuyền trưởng Warfield bắt đầu nổi gân và ửng đỏ. Ông định
lên tiếng nhưng nghẹn họng không nói được nên lời.
“Đồ dịch vật… đồ dịch vật… chỉ cần hai xu… chỉ cần hai xu...” – ông
chỉ lắp bắp được có thế.
HẾT