toán món nợ đó. Một hôm, sau một cuộc dẫn giải như vậy, El-Soo nói dứt
khoát quyết định của nàng cho Porpotuk hay.
Nàng nói: “tôi nói cho ông biết hai điều: thứ nhất tôi sẽ không bao giờ
chịu làm vợ ông, ông nhớ kỹ điều ấy chứ? Thứ hai là tôi sẽ trả ông mười
sáu ngàn Mỹ Kim không thiếu một xu nhỏ nào.”
Porpotuk sửa lại “mười lăm ngàn chín trăm sáu mươi bảy Mỹ Kim và
bảy mươi lăm xu.”
Nàng đáp: “cha tôi bảo mười sáu ngàn. Tôi sẽ trả hết nợ ông.”
“ Trả bằng cách nào?”
“Tôi không biết, nhưng tôi sẽ tìm ra cách trả. Bây giờ ông đi đi và đứng
có quấy rầy tôi thêm nữa. Nếu ông còn quấy rầy,” - nàng ngập ngừng để
nghĩ một cách trừng phạt thích đáng - “nếu ông còn quấy rầy, tôi sẽ sai
người lại vùi ông xuống tuyết ngay khi có trận tuyết đầu tiên.”
Lúc ấy hãy còn vào đầu xuân, và sau đó ít lâu, El-Soo đã làm cả vùng
ngạc nhiên. Tiếng đồn đại khắp vùng Yukon, từ Chilkoot tới Delta, từ trại
này đến trại khác, tới những trại hẻo lánh nhất, rằng tới tháng Sáu khi con
cá thu đầu tiên bơi ngược dòng để tìm nơi đẻ, thì El-Soo, con gái của
Klakee-Nah, sẽ tự bán đấu giá mình để trả nợ Porpotuk. Bao nhiêu lời
khuyên can nàng cũng đều vô ích. Vị giáo sĩ ở nhà thờ thánh George hết sức
cản ngăn nàng, nhưng nàng trả lời:
“ Chỉ có nợ của chúa mới trả ở thế giới bên kia. Còn nợ của thế nhân
thì phải thanh toán ở ngay thế gian này”
Akoon cố van nài, nhưng nàng trả lời: “Anh Akoon, em yêu anh tha
thiết, nhưng danh dự còn trọng hơn tình yêu, và em là hạng người gì nếu em
để xấu mặt cha em?”
Dì phước Alberta từ tu viện Thánh Giá vội đáp chuyến tầu đầu tiên tới
gặp El-Soo để cố tìm lời khuyên răn nhưng cũng không lay chuyển nổi
nàng.
El-Soo nói: “Linh hồn cha con đang vất vưởng trong một khu rừng rậm
vô tận. Người sẽ vơ vẩn mãi ở đó với các linh hồn lạc lõng, kêu khóc tới khi
nào trả xong món nợ đó. Vậy chỉ khi nào thanh toán xong nợ, người mới lên
tới được điện Tổ Phụ”.
Dì phước Alberta nhún vai một cách hoài nghi.