mức, tuy nhiên hiệu quả của những cảnh báo đó không cao. Dường như các ngân
hàng vẫn rất yên tâm với những rủi ro mà họ đang chấp nhận, tin tưởng rằng dù giá
nhà có giảm xuống mạnh và nhiều người gặp phải tình trạng giá trị tài sản thâm hụt
thì mức độ vỡ nợ vẫn ít.
Tuy nhiên, vấn đề căn bản là trong suốt giai đoạn bong bóng đó, cơ quan giám sát
ngân hàng chỉ tập trung vào rủi ro mà mỗi định chế tài chính gặp phải, nên không
quan tâm đầy đủ đến khối lượng của toàn bộ những khoản vay mới. Tôi không mấy
ủng hộ những quy định và luật lệ mới, nhưng tôi chắc rằng, với hậu quả của bong
bóng, chúng ta sẽ thấy nhiều thay đổi lớn.
. Xem bảng phân tích đầy đủ và chi tiết ở “Barker Report”, Kate Barker, Mang
lại sự ổn định: Đảm bảo nhu cầu về nhà ở trong tương lại của chúng ta (Delivering
Stability: Securing our Future Housing Needs) 17/3/2004 trên trang
www.barkerreview.org.
. OECD, Viễn cảnh kinh tế (Economic Outlook), tháng 3/2008, phụ lục 28
. Ngân hàng Trung ương Anh, Financial Stability Review, tháng 6/2000, trang
105-125
. CEBR, trích trong The Business , ngày 26/10/2003, trang 2
. Là loại thuế cho các dịch vụ hội đồng mà người sở hữu nhà hoặc người đang
thuê căn nhà đó phải đóng cho chính quyền địa phương.