thành tâm đến thế. Cầu xong, tôi thấy trong lòng nhẹ nhõm hơn. Tương lai
của chúng tôi còn rất mù mịt; nhưng tôi nghĩ chính cái sợ hãi và mờ mịt ấy
bao giờ cũng đưa con người lại gần hơn với Chúa.
- Nào, - Henry nói, - Bây giờ thì chúng ta xuất phát!
Và chúng tôi lên đường. Nói chung, hầu như chúng tôi phải đi mò, vì
ngoài những đỉnh núi xa và tấm bản đồ mà Hoxe Xinvext, một ông già nửa
điên nửa tỉnh đã vẽ lên một mẩu vải lúc hấp hối, chúng tôi chẳng còn gì
khác để định hướng. Khó mà tin được bản đồ ấy, thế mà nó lại là tất cả hi
vọng thành công của chúng tôi. Tôi lo không biết chúng tôi có tìm được hồ
“nước thối” mà theo bản đồ của ông lão Bồ Đào Nha, thì sẽ nằm chính giữa
sa mạc, tức là cách làng Xitandi sáu mươi dặm hay không. Từ đấy đến núi
Vú nữ hoàng Xava cũng bằng chừng ấy. Nếu không tìm thấy, chắc chắn
chúng tôi sẽ chết khát. Chúng tôi hầu như không có một cơ sở nào để hi
vọng tìm thấy nó giữa biển cát mênh mông và những bụi gai thấp, thưa thớt
này. Giả sử đa Xinvextơra có xác định đúng vị trí của hồ nước đi nữa, thì lẽ
nào dưới ánh sáng mặt trời gay gắt, nó không cạn khô sau ba thế kỷ? Lẽ nào
thú vật không dẫm nát nó? Và cuối cùng là không bị cát vùi lấp?
Lặng lẽ như những cái bóng, chúng tôi bước đi trong đêm tối, chân ngập
sâu dưới cát. Đi nhanh là điều không thể được, vì chúng tôi luôn vấp phải
các bụi gai. Cát chui vào giày Vendxcun của chúng tôi và giày đi săn của
Huđơ, nên chốc chốc phải dừng lại để dốc cát ra. Sương đêm làm giảm cái
nóng ngột ngạt của sa mạc, và mặc dù đi lại khó khăn và dừng khá nhiều,
chúng tôi vẫn tiến nhanh về phía trước. Xung quanh là một sự im lặng nặng
nề. Để làm chúng tôi vui lên, Huđơ huýt sáo bài “Cô gái mà tôi bỏ lại ở
nhà”, nhưng giữa sa mạc mênh mông giai điệu vui nhộn của bài hát lại trở
nên buồn thảm và rùng rợn. Huđơ thôi không huýt sáo nữa.
Chẳng bao lâu, một việc đã xẩy ra với chúng tôi, lúc đầu làm ai cũng
hoảng sợ hết hồn, nhưng sau lại biến thành câu chuyện vui vẻ. Thuyền
trưởng Huđơ đi đầu, tay cầm chiếc la bàn mà với tư cách là một thủy thủ,