ông ta rất biết cách sử dụng. Chúng tôi thì người nọ tiếp người kia đi theo
ông ta. Bỗng ông ta kêu to một tiếng rồi biến mất. Đúng lúc ấy xung quanh
chúng tôi vang lên những âm thanh kì lạ như tiếng rên, tiếng thở phì phì và
tiếng những bước chân nặng nề đang bỏ chạy. Mặc dù hầu như tối hoàn
toàn, chúng tôi lờ mờ nhận thấy bóng của những sinh vật lạ lùng nào đó
đang lao về phía trước, cuốn tung bụi cát. Những người bản xứ vất đồ đạc
định bỏ chạy, nhưng chợt nhớ ra là không còn nơi nào để chạy, liền nằm lăn
xuống cát, kêu to rằng đó chính là quỷ sứ. Tôi và Henry đứng lặng vì ngạc
nhiên, nhưng chúng tôi càng ngạc nhiên gấp bội khi chợt thấy Huđơ đang
phóng như bay về phía núi. Chúng tôi có cảm giác như ông ta phi trên lưng
ngựa, vừa phi vừa kêu lên những tiếng kêu kinh khủng. Bỗng nhiên, dang
rộng hai tay, ông ta ngã phịch xuống đất.
Đến lúc này tôi hiểu chuyện gì đã xẩy ra: Đang đi trong bóng đêm,
chúng tôi vấp phải một đàn ngựa rừng châu Phi, và Huđơ ngã ngay xuống
lưng một con, làm con này hoảng sợ, chồm dậy và cứ thế phóng đi, mang
theo cả chàng kỵ sĩ. Tôi kêu to, bảo mọi người đừng lo, rồi chạy đến chỗ
Huđơ, và rất sung sướng thấy ông ta đang ngồi trên cát. Tôi thở phào nhẹ
nhõm vì tuy ngã, nhưng ông ta hoàn toàn không bị thương tổn chút nào. Tất
nhiên ông thuyền trưởng bị một phen hú vía và bị xóc kinh khủng, nhưng
tất cả những điều ấy không để lại một dấu vết gì, cả trên người ông ta, và cả
trên chiếc kính một mắt vẫn lấp lánh ở mắt bên phải.
Sau sự kiện vui vẻ ấy, chúng tôi đi tiếp và không hề gặp một chuyện khó
chịu nào. Gần một giờ sáng chúng tôi dừng lại uống ít nước (chúng tôi
không dám uống thả cửa, vì biết nước sau này sẽ cần thiết như thế nào) nghỉ
lấy sức ba mươi phút, rồi lại đi tiếp.
Chúng tôi đi, đi mãi cho đến lúc cuối cùng chân trời phía đông rực hồng
như đôi má của cô gái khi xấu hổ. Những tia nắng dịu dàng màu vàng hồng
đan chéo lẫn nhau xuất hiện. Một ngày mới bắt đầu.