Chúng tôi quyết định không dừng lại nghỉ dù rất muốn, vì biết rằng khi
mặt trời lên cao, trời nóng sẽ khó lòng mà đi tiếp. Nửa giờ sau, cuối cùng
chúng tôi nhìn thấy ở phía xa một vài mỏm đá nhô lên trên nền sa mạc bằng
phẳng. Kéo lê chân vì mỏi mệt, chúng tôi tiến về phía những mỏm đá ấy, và
sung sướng nhận thấy một mỏm chìa ra phía trước tạo trước cái mái che
nắng rất tốt. Phía dưới nó đất được phủ một lớp cát mịn. Chúng tôi thích thú
ngồi nghỉ ở đấy, uống ít nước và mỗi người ăn một miếng thịt phơi khô rồi
ngay lập tức ngủ say như chết.
Khi chúng tôi tỉnh dậy đã là ba giờ chiều. Những người khuân vác
Caphơ chờ chúng tôi dậy để chuẩn bị quay trở lại. Sa mạc đã làm họ chán
ngấy tận cổ, và không một thứ dao săn nào trên đời còn có thể bắt được họ
đi tiếp. Chúng tôi khoan khoái uống hết số nước còn lại trong bình của
mình rồi lại đổ đầy bằng nước mà những người này mang theo, rồi cho họ
về nhà.
Vào bốn giờ ba mươi phút, chúng tôi lại lên đường. Sa mạc im lặng một
cách chết chóc. Trên cả biển cát mênh mông mà tầm mắt có thể bao quát
được không hề có một sinh vật nào, trừ một vài con đà điểu. Có lẽ vì thiếu
nước nên không có muông thú, và nếu không kể một hay hai loại rắn hổ
mang, chúng tôi hoàn toàn không thấy loài bò sát nào. Thế nhưng có một
giống thì lại quá nhiều, đó là ruồi, loại ruồi bình thường ta vẫn thấy ở nhà.
Chúng bay đầy trên sa mạc và luôn theo đuổi chúng tôi như những tên thám
báo, không phải “từng con một, mà là từng đàn lớn”, như đâu đó trong phần
Cựu ước của Kinh thánh đã miêu tả. Thứ ruồi này thật đặc biệt, anh trốn
đâu cũng gặp chúng. Có lẽ ngay từ thời sáng thế đã có chúng. Một lần tôi
nhìn thấy một con bị ướp trong một cục hổ phách mà người ta nói với tôi ít
nhất cũng đã năm vạn năm tuổi. Thế mà con ruồi ấy trông chẳng khác con
ruồi hiện đại một chút nào. Tôi hầu như tin tưởng một cách chắc chắn rằng
khi con người cuối cùng trên trái đất chết, thì chúng (tất nhiên nếu điều ấy
xảy ra vào mùa hè) cũng sẽ bay vù vù xung quanh và cố gắng chọn thời cơ
thuận lợi để đậu ngay lên mũi anh ta.