thích kiếm sống bằng nghề săn bắn hơn. Tôi cũng sẽ ít tiền như họ, nhưng
số phận sẽ không đến nỗi quá trớ trêu như thế. Tên ông ta tôi dò tìm trong
bảng danh sách những người đi tàu là Huđơ, thuyền trưởng Giôn Huđơ. Đó
là một người khỏe mạnh, không cao nhưng vạm vỡ, tóc màu đen, có vẻ
ngoài khá nổi bật. Ông ta ăn mặc vô cùng cẩn thận, râu cạo nhẵn thín và
bao giờ cũng mang chiếc kính một mắt ở mắt phải. Tôi cứ có cảm giác như
chiếc kính mọc và dính ngay vào mắt, vì ông ta mang nó mà không cần dây,
gọng, và chỉ cởi ra những khi cần lau bụi. Tôi nghĩ một cách thơ ngây rằng
cả khi ngủ ông ta cũng mang nó. Nhưng không, tôi nhầm. Sau này tôi biết
được rằng khi ngủ, ông ta cất nó vào túi quần cùng với hai bộ răng giả cực
đẹp, đến nỗi nhiều khi làm tôi phải vi phạm điều răn thứ mười của
Chúa(Điều răn thứ mười khuyên không nên ghen tị với người khác), chả là
vì răng của tôi không lấy gì làm tốt cho lắm. Nhưng tôi lại đi quá xa về phía
trước mất rồi!
Chẳng bao lâu sau khi nhổ neo, đêm ập đến và thời tiết bỗng trở nên xấu
hẳn. Gió thổi mạnh từ đất liền tới, xuất hiện sương dày ẩm ướt, và tất cả các
hành khách buộc phải rời boong tàu. Chiếc tàu đáy bằng của chúng tôi chở
chưa đủ nặng nên nghiêng khá mạnh, nhiều khi tưởng như sắp lật sấp.
Nhưng thật may là điều ấy đã không xảy ra. Không thể đứng trên boong
được nữa, tôi xuống đứng bên cạnh buồng máy ấm áp, và vì không có việc
gì để làm, tôi nhìn vào chiếc máy nhỏ đo độ nghiêng của tàu. Chiếc kim
chậm chạp hết quay lên rồi lại xuống, phụ thuộc vào con sóng lớn hay bé.
- Thế mà cũng máy với móc! chỉ sai bét! Tôi bỗng nghe có ai nói bên
cạnh, giọng giận dữ.
Quay lại, tôi thấy đó là người sĩ quan hăng hái mà trước đấy tôi chú ý
quan sát.
- Thật ư? Sao ông lại nghĩ thế?