Để giải thích sự biến đổi của loài vật, trước hết có học thuyết Lamác cho
rằng cơ quan biến đổi dần dần để thích nghi với đời sống và làm loài vật
biến đổi.
Sau đó, người ta thí nghiệm thấy những biến đổi cơ quan theo môi
trường không di truyền được, mà những tình trạng mới của loài vât xuất
hiện một cách đột nhiên. Thuyết đột biến Đơvriét thay thế thuyết Lamác.
Nhưng thuyết đột biến lai không cắt nghĩa được sự tiến hoá rõ ràng của
loài vật từ thấp lên cao, từ đơn giản tới phức tạp. Học thuyết Đácuyn thành
hình ở thế kỷ XIX giải thích sự tiến hoá các loài bằng hiện tượng chon lọc
tự nhiên.
Nghi vấn khoa học còn là nghiêm khắc và khách quan trong khi phân
tích giả thuyết của chính mình. Mác đọc tác phẩm của mình cho Enghen
nghe và khi Enghen coa ý kiến khác, thì Mác lại bỏ ra hàng tuần đọc lại
hàng trăm trang sách để chứng minh thêm hoặc chỉnh lý lại.
Sau khi Anxtanh đã mất 15 năm nghiên cứu cuối cùng đi đến thất bại,
ông không hề mất tinh thần. Cũng vui vẻ như lúc ban đầu khi ông đang còn
tin vào thắng lợi, ông bình tĩnh bỏ rơi giả thuyết của mình với câu nói: Thế
đấy, tôi lại đi lạc đường rồi. Hiện nay, hiện tượng cả tin còn khá phổ biến.
Người ta sắn sàng tin là thật một sự kiện được truyền đạt tới tai, không bao
giờ có ý định kiểm tra nó.
Có người còn quá tin vào vốn hiểu biết của mình, cho rằng mọi ý niệm
nảy sinh trong đầu đều là chân lý, chỉ cần người khác lấy sự kiện thực tế để
chứng minh.
Có người quá tự tin không chựu chấp nhận ý kiến trái với suy nghĩ của
mình, cho rằng tất cả đếu sai, riêng mình là đúng.
Nhà sinh lý học Clốt Bécna, hồi thế kỷ XIX, đã có lời khuyên: Không
bao giờ làm thí nghiệm để xác định ý niệm mà chỉ để kiểm tra ý niệm.
Tất cả thái độ trên đây đều trái với tinh thần khoa học.
Kết quả là suy nghĩ của ta không xác thực tế và sai lầm trong suy nghĩ sẽ
dẫn tới sai lầm trong suy nghĩ sẽ dẫn tới sai lầm trong hành động.
Nếu ta lại là cấp quản lý khoa học có uy quyền, thì cấp dưới rất dễ phải
suy nghĩ theo cùng hướng, phụ hoạ không nhiều thì ít vào ý niệm chủ quan