rùng mình nếu biết khắp phòng không có mảnh giẻ lau nào) nhưng bù lại,
cậu đọc rất nhiều. Dưới đống tạp chí đủ loại gồm Dakota Farmer, Popular
Magazine và Saturday Morning Post, tôi thấy chiếc thùng gỗ rỗngcó thể
dùng đựng sách.
Sức người kết hợp với một miếng giẻ và chút nước ấm khiến mặt bàn
loáng cái đã sạch bóng. Tôi bày đĩa tráng men, nĩa và muỗng bằng thiếc lên
bàn rồi quay sang “Ngài” Whiskers.
- Cứ như nhà hàng Vanderbilts ấy!
Sau “món khai vị” thịt chuột, con mèo nằm cuộn tròn sưởi ấm bên bếp.
Trong phòng không có ghế nhưngvới tôi, ngồi trên một thùng cũ úp xuống
sàn cũng tiện chán. Chắc thuở sinh thời, cậu tôi cũng thích ngồi loại “ghế”
này.
Trước khi bữa tối nóng sốt được dọn lên, nhà cậu Chester, giờ là nhà tôi,
có thể coi là ấm cúng. Tôi rót cà phê cho mình, pha cho “Ngài” Whiskers
chút sữa hộp. Tôi nâng ly:
- Mừng ta về nhà mới. Rồi chị lẩm bẩm:
- Cảm ơn Thượng Đế ban cho con cậu Chester. Mong cậu an nghỉ đời đời
trong sự che chở của Người. Cảm ơn Người cho con gặp chị Perilee,
ngườicho con bữa tối ngon lành này, đùm bọc con từ khi con gặp chị. Cảm
ơn “Ngài” Whiskers đã bắt con chuột khi nãy. Amen!
Khi tôi xúc món hầm, tiếng muỗng va vào lòng đĩa sâu kêu lanh canh.
Món ăn mang vị lá xô thơm, cà rốt và vị của niềm hi vọng. Súp trong đĩa đã
hết từ lâu mà dư vị của món ăn vẫn còn mãi nơi đầu lưỡi. Tôi bỏ đĩa xuống
đất cho mèo liếm sạch. Trong lúc đó, tôi cắt bánh ngọt chị Perilee cho.
Ngửi mùi bánh đã thơm ngon, ăn bánh còn ngon hơn. Nhớ lại chuyện bán ở
thị trấn, tôi lắc đầu. Sao lắm lúc đầu con người ta đặc thế không biết.