tánh vô tánh, cũng phi vô tánh. Hễ giác đƣợc tự tâm hiện lƣợng thì vọng
tƣởng chẳng sanh, yên ổn an lạc, dứt hẳn việc thế gian.
- Phàm phu ngu si, dùng vọng tƣởng làm việc, chẳng phải Thánh Hiền, biết
vọng tƣởng chẳng thật nhƣ thành Càn Thát Bà và ngƣời huyễn hóa. Đại
Huệ! Nhƣ trong thành Càn Thát Bà, có ngƣời huyễn hoá, ngƣời buôn bán,
đủ thứ chúng sanh ra vào, phàm phu vọng tƣởng cho có ngƣời chơn thật ra
vào, nhƣng thật thì chẳng có kẻ ra ngƣời vào. Nhƣ thế, Đại Huệ! Phàm phu
ngu si, khởi tƣởng mê hoặc bất sanh bất diệt, thật cũng chẳng có hữu vi vô
vi, hoặc sanh hoặc diệt của ngƣời huyễn, kỳ thật ngƣời huyễn vốn chẳng có.
Tất cả pháp cũng nhƣ thế, lìa nơi sanh diệt, tánh và vô tánh đều Vô Sở Hữu.
Phàm phu ngu si, đọa kiến chấp bất nhƣ thật, khởi vọng tƣởng sanh diệt,
BẤT NHƢ THẬT của các bậc Thánh Hiền thì chẳng nhƣ vậy. Nhƣng tánh
và phi tánh với vọng tƣởng cũng chẳng có khác, nếu khác với vọng tƣởng,
chấp trƣớc tất cả tánh của tự tánh thì chẳng thấy tịch tịnh. Nếu chẳng thấy
tịch tịnh thì rốt cuộc chẳng thể lìa vọng tƣởng. Cho nên Đại Huệ! Chẳng có
thấy tƣớng mà thấy vô tƣớng mới đúng. "Thấy Tƣớng " là cái nhân thọ sanh
nên chẳng đúng, vô tƣớng thì vọng tƣởng chẳng sanh, chẳng khởi chẳng
diệt, Ta nói là Niết Bàn. Đại Huệ! Nói Niết Bàn là thấy nghĩa chơn thật, lìa
pháp tâm, tâm số của vọng tƣởng, cho đến đắc Nhƣ Lai Tự Giác Thánh Trí,
Ta nói là Niết Bàn.
Khi ấy Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :
Diệt trừ Nhân Sanh Luận,
Kiến lập nghĩa bất sanh.
Pháp ta thuyết nhƣ thế,
Phàm phu chẳng thể biết.
Tất cả pháp Bất sanh,
Vô Tánh Vô Sở Hữu.
Nhƣ thành Càn Thát Bà,
Và mộng huyễn vô nhân.
Bất sanh chẳng tự tánh,