Thì là Vô Sở Hữu.
Tất cả cõi chƣ Phật,
Dùng tay bất tƣ nghì,
Nhất thời xoa đầu họ,
Thuận nhập tƣớng Chơn Nhƣ.
Lƣợc GIẢI :
Phàm phu thiền chỉ dứt trừ vọng tƣởng, Bồ Tát thì xu hƣớng Chơn Nhƣ, đều
chẳng phải thật trong sạch. Nếu là Nhƣ Lai Thanh Tịnh Thiền thì Thánh
phàm bình đẳng, thể tự nhƣ nhƣ, dùng cái tâm chẳng sanh diệt làm nhân địa,
để tu chứng thành tựu quả địa Phật. Ngoại đạo thì chấp tƣớng mà cầu nhập
định, lúc thấy hình nhựt nguyệt sáng tỏ, hoặc thấy hoa sen mọc nơi đất bùn
mà chẳng nhiễm, cho là sự chứng đắc. Thanh Văn, Duyên Giác thì chán
sanh tử nên xả thân diệt trí, lần lƣợt diệt sạch thì đọa nơi chấp không. Đạo
của ngoại đạo vì không phá ngã chấp, dù tu thiền đắc đƣợc thần thông, cũng
chẳng thể ra khỏi luân hồi. Nhƣ Lai Thiền thì xa lìa tất cả. Nói VÔ SỞ HữU
có nghĩ là vô sở trụ, chẳng phải chấp thật không, nên đƣợc vào tƣớng Chơn
Nhƣ, chứng quả bất tƣ nghì, khởi dụng bất tƣ nghì. Ấy là Nhƣ Lai Thanh
Tịnh Thiền vậy.
Lƣợc giải hết
CHÁNH VĂN :
Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng:
- Thế Tôn nói pháp NIẾT BàN, thuyết pháp nào gọi là Niết Bàn?
Phật bảo Đại Huệ :
- Tập khí tự tánh của tất cả thức đều là pháp sanh tử, nhƣ tập khí Tạng thức (
Thức thứ tám ), tập khí ý ( Thức thứ bảy ), tập khí ý thức ( Thức thứ sáu ),
tập khí kiến ( Tiền Ngũ Thức ). Nếu chuyển đƣợc các tập khí ấy, tức là
chuyển sanh tử, gọi là Niết Bàn. Cái Niết Bàn của Ta và chƣ Phật sở thuyết,
tức là cảnh giới tánh không của các pháp.