cái. Còn lúc này tôi ăn cả năm cái trong lúc ba nhìn tôi, hơi ấn tượng và có
lẽ một chút lo lắng. Ba nói: “Con coi chừng bội thực.”
Khi chúng tôi về nhà, mẹ đang may một đường viền áo trong nhà bếp.
Mẹ đang sửa lại chiếc áo đầm màu đen mà tôi biết mình sẽ mặc trong lễ
tang.
Mẹ nói: “Em lo quá.”
“Katie ăn năm cái bánh nhân thịt,” ba nói. “Thành ra hơi lâu.”
Cả ba và mẹ đều nhìn vào bụng tôi như thể đang chờ nó nổ tung ra vậy.
Khi nó không nổ, mẹ lại ngước lên nhìn ba. Mẹ lại nói cái điều mà bà hay
nói mỗi khi muốn nhắc ba rằng ông không thể chịu nổi một sinh hoạt bất
bình thường nào. “Anh còn cả một ngày dài vào ngày mai nữa đó.”
Ba và mẹ bước ra khỏi bếp. Mẹ không bắt tôi rửa chén. Và bà cũng
không tự mình làm. Tôi chưa bao giờ thấy mẹ đi ngủ mà để nguyên cả một
bồn đầy những chén đĩa còn dơ. Và tôi thì chưa bao giờ tự rửa chúng trừ
khi bị la rầy. Nhưng tối hôm đó tôi nghĩ mình nên làm. Tôi lau thành bếp và
thậm chí chùi cả sàn nhà. Tôi không biết dùng cái miếng xốp nào để lau
thành bếp. Có vẻ như mẹ tôi dùng từng cái nhau tùy vào chuyện mẹ đang
làm gì. Nhưng ở đây chỉ có một miếng xốp trong bồn. Một dãy chai lọ đựng
nước rửa chén được đặt bên dưới cái bồn. Nhưng không có thêm miếng xốp
nào khác. Tôi tưởng tượng ra mẹ sẽ bực mình như thế nào nếu tôi dùng sai
miếng xốp. Nếu có Lynn ở đây, chị có thể chỉ cho tôi nên dùng miếng xốp
nào, chị có thể chỉ cho tôi nên làm gì tiếp theo. Tôi không biết làm gì hết
khi không có chị chỉ cho. Tôi gục đầu xuống bàn và khóc. Sau cùng tôi
nhúng ướt một cái khăn rửa chén và dùng nó để lau thành bếp, cái bàn, và
cả mấy cái ghế. Khi tôi xong việc thì trời đã khuya. Tôi ngồi xuống bàn mà
không biết làm gì tiếp.
Sau đó tôi nằm trên giường và nhìn thấy con bướm đêm hạnh phúc đó,
nó vẫn còn sống, bay lượn từ cái đèn ngủ lên tường rồi xuống lại cái đèn
ngủ. Rồi tôi hiểu ra rằng mình đã trông thấy điều gì trong đôi mắt của Lynn
vào tối hôm qua: Chị đã ước mình là con bướm kia. Có lẽ đó là điều cuối
cùng chị ao ước.