như làm chủ tể vạn vật.
Nó không để lộ tinh nhuệ ra, gỡ những rối loạn, che bớt ánh sáng, hòa đồng
với trần tục; nó sâu kín [không hiện] mà dường như trường tồn.
Ta không biết nó là con ai; có lẽ nó có trước thượng đế.
Liou Kia-hway cho rằng trong câu nhì, chữ nhuệ tượng trưng sự trác tuyệt,
siêu phàm, chữ phân tượng trưng sự xung đột, chữ quang tượng trưng đức
tốt, chữ trần tượng trưng tật xấu.
Có nhà lại bảo “giải kì phân” là giải phóng óc nhị nguyên, phân chia sự vật.
Nhà khác giảng là “lấy sự giản phác chống sự phiền phức”.
“Hòa kì quang” có người hiểu là đem ánh sáng của mình hòa với những ánh
sáng khác, tức không tự tôn tự đại.
Chữ “trạm” cũng trong câu 2 có hai nghĩa: sâu kín, trong lặng. Chúng tôi
theo Dư Bồi Lâm, dùng theo nghĩa trong Thuyết văn: “trạm, một dã”, một là
chìm, không hiện lên.
Chúng ta để ý hai điều này:
- tác giả dùng nhiều chữ nói lửng: hoặc, tự, ngô bất tri, tượng.
- chương này là chương duy nhất nói đến thượng đế, mà có 12 chữ y hệt
chương 56 (tức những chữ: toả kì nhuệ, giải kì phân, hoà kì quang, đồng kì
trần), khiến chúng tôi nghi ngờ là do người đời sau thêm vô. Đại ý cũng chỉ
là nói về thể và dụng của đạo.
5
天地不仁,以萬物爲芻狗;聖⼈不仁,以百姓爲芻狗。