không còn là trăm quan ngày xưa, thì chính giáo ngày xưa cũng không dùng
cho ngày nay được, nghĩa là phải bỏ, không một chút luyến tiếc. Như vậy là
Lão muốn bác thuyết “phục cổ” của Nho gia mà con chó rơm của Lão tức
điển lễ, chế độ của cổ nhân.
Một nhà khác, Wieger (do Jean Grenier dẫn – tr.79) cũng cho bách tính đó là
trăm quan: quan nào có ích cho nước thì dùng, vô ích hoặc có hại thì bỏ,
diệt, vì vua chúa chỉ nên “yêu quốc gia thôi, chứ không được yêu cá nhân”
cũng như trời đất sinh ra, nuôi dưỡng vạn vật chỉ lo cho cái lợi chung của
vạn vật chứ không quan tâm tới cái lợi riêng của một vật nào. Weiger hiểu
như vậy rồi cho chính sách của Lão tử là chính sách tuỳ cơ, hoạt đầu cũng
như chính sách của Pháp gia sau này.
Chúng tôi nghĩ Lão tử chỉ muốn khuyên ta trị dân thì cứ theo đạo, theo tự
nhiên, mà để cho dân tự nhiên phát triển theo thiên tính, đừng can thiệp vào.
Câu sau Lão tử so sánh khoảng trời đất với cái ống bễ. Rất đúng và tài tình.
Cả hai đều hư không mà không cùng kiệt (có nhà dịch bất khuất là không
bẹp xuống: ý cũng vậy), mà cả hai càng động thì hơi gió càng phát ra nhiều.
Cái dụng của cái hư không (vô) như vậy đó.
Câu cuối, chữ 數 có người đọc là số, sổ; chữ 中 có người đọc là trung, chúng
tôi theo Dư Bồi Lâm cho 中 là 盅 tức 沖. Do đó chúng tôi hiểu: càng nói
nhiều càng dùng lời để dạy, (chữ ngôn đây là chữ ngôn trong “bất ngôn chi
giáo” ở chương II) thì kết quả càng tai hại, không bằng cứ hư tĩnh, vô vi.
Liou Kia-hway hiểu khác hẳn: Càng nói nhiều về đạo thì càng không hiểu
nó, không bằng nhập vào đạo. Nhà khác lại dịch là: Nói nhiều cũng không
sao hết được, không bằng giữ mực trung.
Hiểu như chúng tôi, không biết đúng không; nhưng như vậy thì hai phần của
chương mới có liên lạc với nhau: cùng nói về cách trị dân: đừng dùng nhân