Thiên hạ hữu đạo, khước tẩu mã dĩ phẩn; thiên hạ vô đạo, nhung mã sinh ư
giao.
Họa mạc đại ư bất tri túc, cữu mạc đại ư dục đắc. Cố tri túc chi túc, thường
túc hĩ.
Thiên hạ có đạo [các nước không gây chiến với nhau] thì ngựa tốt không
dùng vào chiến tranh mà dùng vào việc cày cấy; thiên hạ vô đạo thì ngựa
dùng vào chiến tranh và ngựa mẹ sinh con ở chiến trường [mà không sinh ở
nhà].
[Do đó mà xét thì] họa không gì lớn bằng không biết thế nào là đủ, hại
không gì bằng tham muốn cho được nhiều [đi chiếm nước ngoài] cho nên
biết thế nào là đủ và thỏa mãn về cái đủ đó thì mới luôn luôn đủ.
47
不出⼾,知天下,不窺牖,⾒天道。其出彌遠,其知彌少。是以聖⼈
不⾏⽽知,不⾒⽽名,無爲⽽成。
Bất xuất hộ, tri thiên hạ, bất khuy dũ, kiến thiên đạo. Kì xuất di viễn, kì tri di
thiểu. Thị dĩ thánh nhân bất hành nhi tri; bất kiến nhi danh; bất vi nhi thành.
Không ra khỏi cửa mà biết được [sự lí trong] thiên hạ; không dòm ra ngoài
cửa mà biết được đạo trời. Càng đi xa càng biết được ít. Cho nên thánh
nhân không đi mà biết, không nhìn mà thấy rõ, không làm mà nên.
Đại ý là dùng tâm thần [trực giác] thì mới lĩnh hội được tổng nguyên lí, chứ
đừng dùng tai mắt mà tìm hiểu từng vật một thì chỉ thêm mê hoặc.
48