Thánh nhân ở trong thiên hạ thì vô tư vô dục, trị thiên hạ thì để lòng mình
hồn nhiên. Trăm họ đều chăm chú nghe nhìn thánh nhân, thánh nhân đều coi
họ như con trẻ.
Chữ đức trong đức thiện, đức tín, nên hiểu là đắc 得 (được) vì hai chữ đó
đọc giống nhau. Có người dịch “đức thiện”, “đức tín” là: như vậy thánh nhân
có lòng tốt, có đức tín.
Đoạn dưới rất khó hiểu. Hai chữ hấp hấp nếu dịch là thu rút như ở chương
36 thì không xuôi. Cho nên nhiều nhà bỏ không dịch, có nhà dịch là: (thánh
nhân làm cho thiên hạ) sợ, sợ nên co rút lại chăng? Chúng tôi gượng dịch
theo Dư Bồi Lâm là vô tư vô dục.
Câu cuối: “bách tính giai chú kì nhĩ mục”, có người hiểu là trăm họ chăm
chú nhìn, lắng tai nghe thánh nhân, như si như ngốc.
50
出⽣⼊死,⽣之徒⼗有三,死之徒⼗有三,⼈之⽣,動之死地,亦⼗
有三。
夫何故?以其⽣⽣之厚。蓋聞善攝⽣者,陸⾏不遇兕虎,⼊軍不被兵
甲。兕無所投其⾓,虎無所措其⽖,兵無所容其刃。夫何故?以其無
死地。
Xuất sinh nhập tử. Sinh chi đồ thập hữu tam, tử chi đồ thập hữu tam, nhân
chi sinh, động chi tử địa, diệc thập hữu tam.
Phù hà cố? Dĩ kì sinh sinh chi hậu. Cái văn thiện nhiếp sinh giả, lục hành bất
ngộ huỷ hổ, nhập quân bất bị binh giáp. Huỷ vô sở đầu kì giác, hổ vô sở thố
kì trảo; binh vô sở dung
kì nhẫn
. Phù hà cố? Dĩ kì vô tử địa.