禍兮福之所倚,福兮禍之所伏。孰知其極?其無正。正復爲奇,善復
爲妖。⼈之迷,其⽇故久。
是以聖⼈⽅⽽不割,廉⽽不劌,直⽽不肆,光⽽不耀。
Kì chính muộn muộn, kì dân thuần thuần; kì chính sát sát, kì dân khuyết
khuyết.
Hoạ hề phúc chi sở ỷ, phúc hề hoạ chi sở phục. Thục tri kì cực? Kì vô chính.
Chính phục vi kì, thiện phục vi yêu. Nhân chi mê, kì nhật cố cửu.
Thị dĩ thánh nhân phương nhi bất cát, liêm nhi bất quế, trực nhi bất tứ, quang
nhi bất diệu.
Chính lệnh mập mờ (khoan hồng) thì dân thuần hậu; chính lệnh rõ ràng
(hình pháp nghiêm minh quá) thì dân kiêu bạc. Hoạ là chỗ dựa của phúc,
phúc là chỗ nấp của hoạ, ai biết được cứu cánh ra sao? Hoạ phúc không có
gì nhất định. Chính có thể biến thành tà, thiện có thể biến thành ác. Loài
người mê hoặc [không hiểu được lẽ đó] đã từ lâu rồi.
Chỉ có bậc thánh nhân [biết được lẽ hoạ phúc vô định đó], nên tuy chính
trực mà không làm thương tổn người, tuy có cạnh gốc mà không hại người,
tuy cương trực mà không phóng túng, xúc phạm người, tuy sáng rỡ mà
không chói loà.
Chương này – tiếp theo chương trên, cũng khuyên trị dân nên vô vi – có
nhiều bản khác nhau một số chữ, và có vài chỗ khó hiểu, nên mỗi nhà giảng
một khác.
Như ba chữ “kì vô chính” ở đoạn giữa, có người hiểu là “nếu người trị nước
không thẳng thắn”, hoặc “thiên hạ không có gì là chính, mẫu mực cả”.
Chúng tôi theo Dư Bồi Lâm, cho chữ kì đó trỏ hoạ, phúc và chính có nghĩa là