LÃO TỬ ĐẠO ĐỨC KINH - NGUYỄN HIẾN LÊ - Trang 206

Câu cuối: chữ ai 哀, có người dịch là nhường, đa số dịch là bi ai, nghĩa là

đau xót mà đành phải ứng chiến, chứ bản tâm không muốn. Dư Bồi Lâm

theo Địch Thượng Đỉnh, cho là chữ ái 爱 (yêu), xưa hai chữ dùng thay nhau

vì đọc như nhau chẳng hạn như trong bài tựa Kinh Thi có câu 爱窈窕⽽不淫
其⾊ (ai yểu điệu nhi bất dâm kì sắc = yêu vẻ dịu dàng mà không say mê sắc

đẹp của mĩ nữ). Ái đây là từ ái, một trong ba vật báu ở chương 67.

Chương này cơ hồ của một binh pháp gia thêm vào.

70

吾⾔甚易知,甚易⾏。天下莫能知,莫能⾏。

⾔有宗,事有君。夫唯無知,是以不知我。

知我者希,則我者貴。是以聖⼈被褐懐⽟。

Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành. Thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành.

Ngôn hữu tôn, sự hữu quân. Phù duy vô tri, thị dĩ bất tri ngã.

Tri ngã giả hi, tắc ngã giả quí. Thị dĩ thánh nhân bị hạt hoài ngọc.

Lời [dạy] của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm, mà thiên hạ không ai hiểu được, làm

được. Lời của ta có tôn chỉ, việc của ta có căn bản [tôn chỉ, căn bản đó tức

đạo: thuận tự nhiên, vô vi]. Vì thiên hạ không hiểu ngôn luận của ta nên

không biết ta. Người hiểu ta rất ít, người theo cũng rất hiếm [nguyên văn là

quí, mà hiếm tức là quí]. Cho nên thánh nhân bận áo vải thô mà ôm ngọc

quí trong lòng.

Bốn chữ “tắc ngã giả quí”: chữ “tắc” chúng tôi cho là một động từ như chữ

tri (tri ngã giả hĩ), có người hiểu là “cho nên”: vì người hiểu rất ít cho nên ta

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.