Câu cuối: chữ ai 哀, có người dịch là nhường, đa số dịch là bi ai, nghĩa là
đau xót mà đành phải ứng chiến, chứ bản tâm không muốn. Dư Bồi Lâm
theo Địch Thượng Đỉnh, cho là chữ ái 爱 (yêu), xưa hai chữ dùng thay nhau
vì đọc như nhau chẳng hạn như trong bài tựa Kinh Thi có câu 爱窈窕⽽不淫
其⾊ (ai yểu điệu nhi bất dâm kì sắc = yêu vẻ dịu dàng mà không say mê sắc
đẹp của mĩ nữ). Ái đây là từ ái, một trong ba vật báu ở chương 67.
Chương này cơ hồ của một binh pháp gia thêm vào.
70
吾⾔甚易知,甚易⾏。天下莫能知,莫能⾏。
⾔有宗,事有君。夫唯無知,是以不知我。
知我者希,則我者貴。是以聖⼈被褐懐⽟。
Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành. Thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành.
Ngôn hữu tôn, sự hữu quân. Phù duy vô tri, thị dĩ bất tri ngã.
Tri ngã giả hi, tắc ngã giả quí. Thị dĩ thánh nhân bị hạt hoài ngọc.
Lời [dạy] của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm, mà thiên hạ không ai hiểu được, làm
được. Lời của ta có tôn chỉ, việc của ta có căn bản [tôn chỉ, căn bản đó tức
đạo: thuận tự nhiên, vô vi]. Vì thiên hạ không hiểu ngôn luận của ta nên
không biết ta. Người hiểu ta rất ít, người theo cũng rất hiếm [nguyên văn là
quí, mà hiếm tức là quí]. Cho nên thánh nhân bận áo vải thô mà ôm ngọc
quí trong lòng.
Bốn chữ “tắc ngã giả quí”: chữ “tắc” chúng tôi cho là một động từ như chữ
tri (tri ngã giả hĩ), có người hiểu là “cho nên”: vì người hiểu rất ít cho nên ta