tạo ra; ngay từ đời Chu, Văn vương và Võ vương đã biết dùng người hiền
trong giới bình dân là Lã Vọng (Thái Công Vọng) để đánh bại nhà Ân, rồi
phong cho làm vua nước Tề; rồi trước Khổng tử khoảng trăm năm, Tề Hoàn
công cũng nhờ Quản Trọng, một người hiền trẻ nghèo khổ, bán dầu, mà lập
nghiệp bá, Quản Trọng lại đề cử mấy người hiền nữa như Ninh Thích, một
người chăn bò… Hoàn công đều trọng đãi hết. Điều đó dễ hiểu: trong thời
loạn, chư hầu nào muốn mạnh lên, làm bá chủ hoặc thôn tính các chư hầu
khác, thì đều phải dùng người hiền tài trong giới bình dân, nếu không kiếm
được trong giới quí tộc.
Lão tử mạt sát lễ, thì Mặc tử cũng mạt sát lễ, mà ngay thời Xuân Thu chắc
cũng đã có nhiều người thấy cái lệ của nhà Nho là phiền phức đâu phải đợi
đến thời Chiến Quốc. Không thể bảo chủ trương đó phải xuất hiện sau
Khổng, Mặc.
d) theo Ngô Tất Tố (sách đã dẫn
– tr.15) thì Phùng Hữu Lan còn dẫn
thêm đoạn này trong Sử kí để chứng rằng Lão tử ra sau Luận ngữ: “Về
phương diện thực hành, họ (phái Đạo gia) theo luật thiên nhiên của “Âm
Dương”, lượm nhặt những chỗ hay của Khổng giáo và Mặc giáo để dung
hợp với những điều cốt yếu của Danh gia và Pháp gia”.
Lí do này vững, và còn chứng tỏ thêm rằng Lão tử không phải chỉ do một
người viết – chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một đoạn sau.
2. Về hình thức:
Ý kiến của các học giả như sau:
a) Trước Khổng tử không có trường hợp nào tư nhân trứ thuật. Vì theo
Chương Thực Trai, một sử gia đời Thanh, thời đó các nhà cầm quyền giữ
điển chương, còn các sử gia thì chép các việc xảy ra. Bọn đó đều là quí tộc
có học thức, lo việc trị dân, đâu có thì giờ nghĩ tới việc viết sách; vả lại nếu
họ có chủ trương gì mới thì có đủ phương tiện để thi hành, không cần phải