mưa vốn càng nặng, gã chém nó lại như phạt lá héo mùa thu, đúng là
đao pháp lợi hại, tốc độ lợi hại!
Tiểu cô nương “a” một tiếng, chợt nghe lão mù nãy giờ vẫn sợ hãi
bên kia nhẹ giọng bảo: “Tiểu Anh Tử, chớ sợ, nghe lời cô cô đó, ngươi
xem trên tường là khúc nào thế?” Vị lão binh Bát tự quân này vào
lúc thế nguy thời khốn mới hiển lộ ra uy dũng giết giặc, diệt thù
năm đó. Tiểu cô nương đếm số chữ trên vách, ngâm nga mấy câu,
lão mù nói: “Là Niệm nô kiều”, rồi ôm hồ cầm lên, chỉnh dây rồi
kéo đàn, tiếng lảnh lót xác xơ, bốn bức tường đèn mờ ảm đạm,
ngoài cửa mưa lạnh thê lương, càng làm nổi cảnh bi khái cho tiếng
đàn. Bài từ đó tả ánh trăng sáng trong hôm Mười bảy tháng Tám
tiểu cô nương được ông nội cổ vũ, cất tiếng ca rằng “Cầu vồng
tan mưa dứt. Trời thu trong, núi nhuộm mày ngài tươi biếc.”
Tam Nương Tử gõ phách, tới đây thì nói “một câu”, Thẩm Phóng
cầm rượu lắng nghe, Cảnh Thương Hoài gật đầu lĩnh ý, biết Tam
Nương Tử nhắc lời ban nãy hắn nói, một câu giết một người.
“Bóng quế đượm đà, ai lại bảo, đêm nay vầng trăng kém tỏ?
Hằng Nga đâu nhỉ? Ngự trên vầng ngọc nọ. Lung linh ánh lạnh,
Vì ai riêng soi...?” Tiểu cô nương không nhận ra mấy chữ cuối, hàm
hồ ngâm qua, Cảnh Thương Hoài cũng không bận tâm, say sưa lắng
nghe, tựa như lại trở về cái buổi trăng tỏ trên đầu.
Tiếp đến là phiến thứ hai: “Thiếu niên theo tớ dong chơi, Gió
khuya đường vắng, Dạo vườn Trương gia rậm rạp. Rượu rót sen
vàng nhà xa vạn dặm, Khó được nâng chén chúc nhau. Già này bình
sinh, Giang Nam Giang Bắc, Yêu nhất hát ca trước gió. Tôn lang
cười khẽ, Ngồi xuống ngân lên tiếng trúc.”
Chúng nhân đều biết, khúc này vừa xong, chỉ sợ lập tức đao
vung máu đổ, có Cảnh Thương Hoài ngồi đó, đám ngồi trên thiết