trời đã tối, ai cũng ngong ngóng chiếc tàu trục đến mang họ đi. Trên bong
tàu đã có đèn sáng.
Trong lúc đó, bỗng có một tiếng nổ long trời như tiếng bom. Hành khách
giật nẩy người lên. Chỉ một vài phút hỗn độn thôi, sau đó tàu chìm ngay,
chìm trong chốc lát. Không ai ngờ như thế cả, và chỉ trong vài giây đồng
hồ, Adassa đã biến khỏi mặt biển.
Đa số hành khách không thể nhảy xuống nước được, nhưng họ đều có
những dây buộc cấp cứu do các cơ quan quốc tế tặng. Do đó, những hành
khách Do Thái không chìm theo chiếc Adassa. Họ vẫn trôi lềnh bềnh trên
mặt nước.
Số phận đã không cho phép họ đụng chân lên «Mảnh đất hứa hẹn» của
Palestine hay mảnh đất liền ở bờ biển và đồng thời cũng ngăn cản họ không
cho đụng chân thấu đất ở đáy biển. Những kẻ đắm tàu nầy không được phép
gặp đất đai. Bất cứ loại đất nào. Ngay cả thứ đất ở đáy biển dành cho những
người chết đuối. Số phận bắt họ phải trôi bồng bềnh xa lòng đất.
Những kẻ bị đắm tàu Adassa là những kẻ ở ngoài luật lệ chung. Họ
không bị chìm xuống đáy biển vì họ đang mang những dây buộc cấp cứu,
quà tặng của những đại cường quốc văn minh.
Đàn bà trẻ con, người lớn chết bồng bềnh trên bể với những chiếc đèn
sáng treo trước ngực.
Lúc tàu cấp cứu đến thì chỉ còn thấy những xác chết trôi lềnh bềnh trên
sóng của Biển Đen.
Như đã có thói quen của công dân một nước văn minh, thủy thủ đoàn
của tàu cấp cứu tìm cách vớt những xác chết và mang họ lên những chiếc
thuyền con.
Một thủy thủ đoàn Hung Gia Lợi hỏi một cách chua chát và mỉa mai: