hung dữ hơn nữa. Vả lại họ không cho phép tao trở về nhà nữa đâu, cho dù
chỉ về trước sân nhà thôi. Trong làng cũng không ai cho tao tạm trú. Như
vậy thì còn lý do gì nữa để tao trở về, mày thấy không, không còn lý do gì
nữa cả.
Một thứ yên lặng nặng nề tiếp theo? Pillat nhấc ống quần lên một chút,
rút một bao thuốc lá dấu trong giầy ra trao cho Boris, Boris vấn thuốc, tay
run run.
Pillat nói: «Chưa bao giờ tao nghe nói hay đọc được một câu chuyện đau
lòng như câu chuyện của mày. Cũng chưa quen biết một ai phải chịu khổ sở
như mày. Làm sao mày có đủ nghị lực để dấu kìn nổi cô đơn đó, Boris. Tao
chưa hề đoán được như thế. Không đứa nào bạn bè, thầy giáo đoán được
câu chuyện của mày. Một điều duy nhất mà tụi tao biết được là mày bắt đầu
gầy đi và bực bội khi hè đến. Tao đã ngạc nhiên là chưa bao giờ mày có một
lá thư ở nhà. Mày là đứa duy nhất không có thư; trong bốn năm, không có
một lá thư. Có đúng là chưa bao giờ mày nhận thư, phải không Boris nhỉ?
Mắt Boris ươn ướt, hắn không trả lời Pillat. Chỉ nhìn mây bay
Hắn thích nhìn những cuộn mây bay ngang trên đầu hắn. Về phương
Đông. Duỗi chân ra hắn châm một điếu thuốc. Bỗng hắn chú ý đến đôi giầy
đang mang. Đôi giầy của những «đứa bị đuổi» cũng không thành đôi
nữa:chiếc bên trái to và sẩm hơn.
Pillat hỏi:«Có bao giờ mày tìm nguồn an ủi nơi Chúa trời không? bởi
Chúa là một nguồn an ủi lớn lao cho những ai quá đau khổ».
Hai đứa ngồi xuống cát, hút thuốc. Boris yên lặng.
- Mày có bao giờ cố gắng tìm về với Chúa?
- Tao đã cố thử. Trong hoàn cảnh tao, khi mà không thể đến gần bất cứ
ai trên trần gian thì dĩ nhiên tao phải tìm đến với Chúa. Khi lần đầu tiên tao