đặn chìm xuống và biến mất giữa những con sóng, biến mất vĩnh viễn ở cái
tuổi còn quá trẻ như vậy trong cái vùng biển xa lạ này... một nơi cách xa
những người mà anh ta yêu quý.
Chuyến đi khoảng chừng một ngàn rưởi kilômét này có vẻ rất dài. Buổi
chiều ngày 5 tháng 3, mưa phùn với màn sương mù nhỏ li ti của nó chào
đón chúng tôi trong vịnh Hạ Long, một trong số các kỳ quan của thế giới,
một bức tranh sơn thủy thơ mộng với vô số những hòn đảo đá lởm chởm
được ban tặng thêm vài mét vuông dải cát vàng óng.
Ngày 6 tháng 3, buổi sáng, tiến lên theo hàng một, đoàn tầu chui vào cửa
sông Cấm, dòng sông rộng hai trăm năm mươi mét, nước màu đỏ nhạt và
đôi bờ ẩn mình sau dải thực vật dầy đặc.
Mười lăm kilômét tầu chạy trước khi đổ bộ lên Hải Phòng, ở đó hình như
mọi việc đã được chuẩn bị sẵn. Quân Tầu của Tưởng Giới Thạch và Việt
Minh đã nhất trí với nhau, khối cư dân người Âu nôn nóng chờ đợi cái khối
hàng thịt tươi được chuyển tới từ mẫu quốc.
Chúng tôi đã nhận được lệnh sẽ điều hành thành phố ngay sau khi tới
bến. Những chiếc tông-đơ cắt tóc hoạt động, những đôi giầy được đánh
bóng loáng, trang bị, vũ khí được lau chùi tỉ mỉ. Được thư giãn, tì khuỷu
tay trên lan can đài chỉ huy, tôi đưa mắt ngắm nhìn hai bên bờ sông, nghĩ
tới những cư dân người Âu ấy, vốn đã phải chịu biết bao đau khổ với sự có
mặt của người Nhật và sau đó lại đến quân Tầu... Và rồi, có điều gì đó
không thể lý giải nổi toát ra từ cái xứ Bắc Kỳ này mà tôi không sao nói lên
được.
Tiểu đoàn trưởng của tôi, Rocaboy, người mà tôi vừa biết được tên, yêu
cầu tôi nói chuyện với anh em trong đơn vị rằng tiểu đoàn trưởng rất mong
họ sẽ diễu hành một cách xuất sắc. Rocaboy, người vùng Bretagne1, tốt
nghiệp trường Saint Cyr2 xưa kia là người chăn lạc đà, đã tham dự chiến
trận của sư đoàn bộ binh thuộc địa số 9, ngoại hình giống như Gabin3 trong