mình. Bà Jennings cũng xem xét, và dù bị bắt buộc phải công nhận có hồi
phục tạm thời, vẫn cố gắng bảo cô cháu trẻ không nên buông thả trong ý
nghĩ rằng sự hồi phục sẽ tiếp tục. Ngẫm nghĩ về mọi sai khiến của bà để
ngờ vực, Elinor cũng tự nhủ không nên hy vọng. Nhưng đã quá muộn. Hy
vọng đã len vào đầu óc cô; và cảm nhận mọi run rẩy lo lắng, cô cúi xuống
em gái để quan sát - cô không biết mình phải quan sát gì.
Thêm nửa giờ trôi qua, và triệu chứng tích cực bây giờ khiến cô vui
mừng. Các người khác đến để xác nhận. Các dấu hiệu của sự hồi phục qua
nhịp thở, sắc da và đôi môi của em gái, đều làm Elinor vui. Rồi Marianne
dán mắt lên cô chăm chăm, tỉnh táo dù còn mệt mỏi. Lo lắng và hy vọng
bây giờ trĩu nặng ngang nhau, không để cho cô yên phút giây nào cho đến
khi ông Harris trở lại lúc bốn giờ. Các trấn an của ông, các chúc mừng của
ông về sự hồi phục của cô em vượt quá mức hy vọng của ông, tất cả đều tạo
cho cô tin tưởng, yên tâm, và những giọt nước mắt vì vui mừng.
Theo mọi phương diện, Marianne đều khá lên hẳn, và ông cho biết cô đã
hoàn toàn qua khỏi cơn hiểm nghèo. Có lẽ đủ mãn nguyện dù các tiên liệu
của bà trong cơ hốt hoảng vừa rồi chỉ đúng một phần, bây giờ bà Jennings
cho phép mình tin tưởng nơi phán đoán của ông; và qua niềm vui không giả
tạo rồi đi đến nỗi vui mừng dứt khoát, bà nhìn nhận người bệnh có khả
năng hồi phục hoàn toàn.
Elinor không thể lấy làm vui mừng. Niềm vui của cô thuộc loại khác,
dẫn đến một điều gì đấy chứ không phải sướng thỏa. Marianne đã được
khôi phục để trở lại với sự sống, sức khỏe, bè bạn, và với bà mẹ hay nuông
chiều, đấy là ý tưởng lấp đầy tim cô bằng những xúc động qua an ủi thấm
thía, và lan rộng trong cảm nghĩ tri ân nồng hậu; nhưng không dẫn đến biểu
lộ vui sướng bên ngoài, không có ngôn từ, không có nụ cười. Tất cả trong
tâm tư của Elinor chỉ là mãn nguyệ - mãn nguyện một cách âm thầm và
mạnh mẽ.