thì tái: mời ông cầm đũa xơi ngay cho, kẻo nguội... Trời lạnh, ăn món nóng
vào có phải ấm lòng lạ lùng không? Nước dùng gà bỏ thêm đầu tôm, đầu
mực, lại đập trứng, húp vào một miếng, nó cứ ngọt lừ đi trong cuống họng...
Nói cho thực thì mùa rét, mấy anh em tri kỷ dắt nhau lên một cái lầu cao,
gọi tả pín lù ăn kể cũng nên thơ.
Phổ ky đưa ra một cái “cù lao hổ”; trong cù lao có để than tầu hồng;
nước dùng ở quanh cái cù lao sôi lên sùng sục làm cho người ăn đã ấm
trong lại ấm cả ngoài. Thỉnh thoảng, mấy bông hoa lửa bay lên đem lại cho
ta cái cảm tưởng mình là những vị tiên ngồi chung quanh lò bát quái luyện
linh đơn, ăn một miếng vào bụng thì trường sanh bất tử.
“Sà bần”, không ăn như vậy. Bí rợ, bún tầu, cá nướng, khoai tây, nấm,
tỏi tây, haricôve, đổ chung vào một cái nồi nấu lên ăn. Cũng như tả pín lù,
các món ăn này còn nguyên vẹn, mới toanh, chưa hề đụng đũa: nhưng cũng
có một thứ sà bần “hầm bà là” tất cả các thức ăn ngày hôm trước nhà có tiệc
tùng còn lại đun nhừ lên, gia thêm rau cỏ rồi bắc ra ăn thật nóng.
Thấp xuống một bực, người bình dân còn ăn đồ “lâm vố” cũng là một
thứ sà bần, nhưng đây là “sà bần” gộp các món ăn Tây nấu nhừ ra: ragu,
rôti, ôđơvơ, ăngtê, sucút cùng bơ, phó mát, cho tất cả vào một cái nồi nấu
chín.
Đừng có bảo những biến chế đó không ngon vì là những món dư, rẻ tiền,
được đun nấu theo một “hệ thống vô trật tự”. Sà bần, lâm vố và tả pín lù,
mỗi thứ có một vị riêng, ăn vào lạ miệng, nhưng thực tình mỗi khi thưởng
thức một món đó rồi, tôi chỉ thấy thương món “hẩu lốn” hơn lên. Món hẩu
lốn giống tất cả những món đó, nhưng lại không giống riêng một món nào.
Tả pín lù, ăn thô và béo quá, nước lại ngọt một cách giả tạo; đồ lâm vố
thì lai căng, lổn nhổn, ăn một miếng chơi, cũng được đi, nhưng đến miếng
thứ hai thì “chán mớ đời”; còn sà bần kể cũng hay, nhưng không hiểu làm
sao tôi cảm thấy nhạt nhẽo... và duy vật như kiểu cô gái Việt học trường