“Tôi đi vào trong tỉnh để nhìn mặt từng người nhưng họ đông như đàn
cá thu xô nhau lội vào bờ làm tôi không sao đếm xuể. Những tiếng ồn ào
đập vào tai tôi đến nỗi tôi chẳng còn nghe gì được, và cảnh nhộn nhịp làm
cho tôi choáng váng. Cứ thế, tôi đi, đi mãi, qua những vùng tưng bừng ca
hát trong ánh nắng ấm áp, những nơi mùa màng phong phú trải ra khắp
cánh đồng, qua những thành thị lớn chen chúc những đàn ông sinh hoạt
giống như đàn bà, miệng lưỡi dối trá và tâm địa đen tối vì quá ham muốn
vàng bạc. Trong khi đó, dân tộc của tôi ở Akatan vẫn chỉ săn bắn và chài
lưới, và họ sung sướng với ý nghĩ rằng thế giới này nhỏ bé”.
“Nhưng cái nhìn hiện ra trong khoé mắt Unga khi nàng trở về sau buổi
đánh cá không lúc nào rời bỏ tôi, và tôi biết rằng tôi sẽ tìm thấy nàng khi
thời cơ đến. Nàng bước trên những con đường êm ả trong buổi chiều tà,
hoặc dẫn tôi đi săn qua những cánh đồng còn ướt sương mai, và trong mắt
nàng hiện lên một lời hứa hẹn mà chỉ có Unga mới có được”.
“Cứ như thế, tôi lang thang qua hàng ngàn thành phố. Có người tử tế với
tôi và cho tôi thức ăn, có người chế diễu, và có người lại còn nguyền rủa tôi
nữa; nhưng tôi cắn răng không nói, tiếp tục đi trên những con đường lạ và
nhìn những quang cảnh lạ. Đôi khi tôi, vốn là một chúa tể và con của một
chúa tể, phải làm việc cực khổ cho những người khác – những người ăn nói
phũ phàng, tâm địa sắt đá, bóc lột mồ hôi nước mắt của những người đồng
chủng để lấy vàng. Tuy nhiên không ai trả lời câu tôi hỏi cho mãi tới khi tôi
trở lại biển giống như con hải báo trở về hang. Nhưng đây là một hải cảng
khác, tại một xứ khác, nằm ở miền Bắc. Tại đó tôi được nghe những chuyện
lờ mờ về người đi biển tóc vàng. Tôi được biết là hắn đi săn hải báo và hồi
đó hắn đang đi tàu trên Đại dương.”
“Vì vậy tôi cũng lên một chiếc tàu buồm săn hải báo với những người
Siwash lười biếng, và theo họ lên phía Bắc nơi mà cuộc săn bắn đang rộn
rịp. Chúng tôi trải qua nhiều tháng mệt nhọc, nói chuyện với nhiều nhân
viên tàu khác, và nghe nhiều chuyện về những hành động hoang đãng của