gây khiếp đảm, nhưng tôi biết là họ chỉ khoác lác. Họ dạy tôi
tiếng lóng mà họ gọi là đòi hỏi cái đe có hai đầu nhọn rouscailler
bigorne.
Đây là một thứ ngôn ngữ ghép vào ngôn ngữ chung như một
khối u gớm ghiếc, một chiếc mụn cóc ngoài da. Đôi khi tiếng
lóng có một năng lực đặc biệt, một cái đẹp rùng rợn như “máu
đổ trên đường” thì gọi là “nho ép ở ngã ba đường”, bị treo cổ thì
gọi là “kết hôn với bà góa” làm như thể cái dây thòng lọng của
giá treo cổ là góa phụ của tất cả những kẻ bị buộc tội treo cổ. Cái
đầu kẻ trộm có hai tên, sorbonne
- khi nó lý luận và bày ra tội
ác, trouche
là cái sọ hay cái thủ, khi nó bị đao phủ cắt cổ.
Đôi khi với tinh thần hài hước dân dã, người ta gọi cái lưỡi là
mụ đàn bà nói điêu, cái gùi của người đi lượm vải rách, sắt vụn
hay giấy vụn là cachemire d’osier - casơmia là một thứ vải dệt
bằng lông dê rất quý ở Ấn Độ, còn osier là cây liễu gió, thứ nguyên
liệu đan giỏ, gùi, v.v…
Rồi từng lúc lại có những từ rất lạ tai, bí ẩn, xấu xa, bẩn thỉu
không biết từ đâu đến như taule là tiếng lóng chỉ nhà tù, trong
khi taule có thể hiểu là nhà ở khách sạn. Sự chết là hình nón
cône, nơi hành hình gọi là placarde có nghĩa là quảng trường, là
chỗ ngồi hay chỗ làm béo bở. Người ta có thể nói tiếng lóng xấu
xa như loài cóc nhái, loài nhện. Khi nghe nói thứ tiếng này, tôi
cảm thấy một cái gì đó dơ bẩn, bụi bặm, như thể một đống giẻ
mà người ta giũ trước mặt anh.
Ít nhất, tôi cũng thấy thích những con người ấy. Chỉ có họ mới
làm tôi thú vị. Các cai ngục, người đeo chìa khóa phòng giam -
tôi đâu có giận họ - trò chuyện, cười nói về tôi, nói trước mặt tôi
như nói về một đồ vật.