cằm họ lên, chỉ một động tác nhỏ từ đằng trước ra đằng sau cũng
đủ đập bể sọ như đập vỡ một quả óc chó.
Sau thao tác này trông mặt mũi họ tối sầm lại. Người ta chỉ
còn nghe thấy tiếng xích, tiếng cùm chạm vào nhau kêu loảng
xoảng và thỉnh thoảng có tiếng kêu thét hay tiếng gậy khô khan
của người cai tù đánh vào chân tay những kẻ ương bướng. Cũng
có những người không chịu được bật tiếng khóc thảm thương,
những người già rùng mình, cắn răng chịu đựng. Tôi khiếp đảm
nhìn tất cả những vẻ mặt thê thảm đó trong các gióng khung sắt
của họ.
Cứ như vậy, lần lượt, sau các thầy thuốc của trại giam là đến
bọn cai tù, cuối cùng là các thợ rèn đến “hỏi thăm” từng người tù
một. Ba hồi của một vở diễn.
Một tia nắng đã trở lại, như lửa đổ lên các bộ óc. Theo hiệu
lệnh, đoàn tù khổ sai nhất loạt đứng dậy như bị co giật. Năm dây
xích được các bàn tay nhấc lên và ngay lập tức tạo thành một
điệu nhảy vòng tròn chung quanh chiếc đèn lồng. Nhìn họ quay
cuồng mà hoa cả mắt. Họ hát bài hát về nhà tù khổ sai, một bản
tình ca bằng tiếng lóng theo một điệu lúc rên rỉ than vãn, lúc
giận dữ phóng túng.
Từng quãng một nổi lên những tiếng kêu lanh lảnh, mấy tiếng
cười xé tai và hổn hển pha lẫn những lời lẽ bí ẩn rồi đến những
lời hoan hô hung dữ và những xiềng xích va chạm nhau theo
nhịp hòa vào tiếng hát khàn khàn hơn cả tiếng kim loại trong
dàn nhạc kỳ lạ này. Nếu tôi đi tìm một hình ảnh của dạ hội phù
thủy thời trung đại để so sánh với cảnh tượng này thì không có
điều gì có thể nói là hơn hay kém.
Người ta đem vào sân trại giam một chiếc chậu gỗ lớn. Bọn
canh tù lấy gậy đập vào những người tù khổ sai ra hiệu dừng
cuộc nhảy và dắt họ đến cái chậu gỗ, trong đó người ta thấy