vào lồng ngực, trong người thấy dễ chịu hẳn. Nhưng chúng tôi
không ở ngoài trời được lâu. Một chiếc xe trạm có ngựa kéo chờ
sẵn ở sân thứ nhất. Cũng vẫn là chiếc đưa tôi đến đây hôm trước.
Đó là một chiếc xe hình thuôn dài, có hai ngăn, có lưới sắt ken
dày ngăn cách theo chiều ngang. Mỗi ngăn có cửa riêng, cái đằng
trước, cái đằng sau xe. Trong xe đầy bụi đen bẩn thỉu đến mức
xe tang của người nghèo cũng còn được coi như xe thụ phong
giáo phẩm.
Trước khi bị đẩy vào cái nhà mồ có hai bánh đó, tôi nhìn lại
sân trong tâm trạng tuyệt vọng, bốn bức tường tưởng như sắp
sụp đổ. Cái sân giống như một quảng trường nhỏ, có cây để chứa
những người tò mò đến xem hơn là để cho những tù nhân sử
dụng. Đám đông kéo đến rồi. Cũng giống như hôm đoàn tù khổ
sai chuyển trại giam, hôm đó trời mưa phùn và lạnh buốt, chắc
chắn là mưa suốt ngày và còn kéo dài hơn cuộc sống của tôi.
Lối đi hỏng nặng. Sân đầy bùn và nước đọng. Tôi cảm thấy
thích thú nhìn thấy đám đông bì bõm trong bùn.
Chúng tôi trèo lên xe. Viên chấp pháp và một hiến binh ngồi ở
ngăn trước, còn ông linh mục, một hiến binh và tôi ngồi ở ngăn
sau. Bốn hiến binh nữa cưỡi ngựa đi hộ tống hai bên xe. Như thế
là không kể người đánh xe đã mất tám người để áp giải một
người.
Trong lúc tôi trèo lên xe, có một cụ già tóc hoa râm nói:
– Tôi thích như thế này hơn là xích người ta lại như dây
chuyền.
Tôi hiểu. Cảnh tượng ấy chỉ thoáng nhìn cũng đủ bao quát
được tất cả một cách dễ dàng. Người ta đã sớm nhìn ra. Cũng tồi
tệ như thế mà lại đơn giản hơn, không có gì khiến người xem lơ
đãng. Chỉ có một người thôi. Nhưng qua con người đó, người ta