kế bên đang trong giai đoạn sửa chữa nên ồn ào suốt ngày không chịu nổi.
Tôi mang thêm vài bộ quần áo, áo mưa, vài quyển sách và đến nhà ông
Casey vào đầu giờ chiều ngày Thứ sáu. Casey vừa mới thu dọn dồ đạc xong
và chuẩn bị gọi taxi.
"Đi London vui vẻ nhé", tôi nói.
"Vâng, dĩ nhiên rồi", Casey cười. "Hãy tận hưởng căn nhà và mấy cái
dĩa nhạc nhé. Nơi này cũng không tệ lắm đâu".
Khi Casey đi khỏi, tôi xuống bếp pha một ly cà phê. Sau đó tôi đặt cái
máy tính của mình trên chiếc bàn trong phòng nghe nhạc kế bên phòng
khách, rồi vừa nghe vài dĩa nhạc mà cha của ông Casey để lại vừa làm việc
khoảng một tiếng đồng hồ. Dường như tôi sẽ làm được rất nhiều việc trong
tuần tới.
Cái bàn lớn màu gỗ gụ có ngăn kéo ở hai bên. Chắc nó đã có mặt ở đây
từ thời xa xưa. Nó là vật cổ xưa nhất trong căn phòng. Bên cạnh những vật
thuộc một thời đại khác, như cái máy tính tôi mang theo chẳng hạn, nó như
thể nó đã nằm nguyên đó suốt một thời gian dài không thể tưởng tượng
được. Sau khi cha mất, ông Casey không thêm một chút gì dù chỉ một con
tem vào căn phòng đó. Như thể Casey xem nơi đó là một miếu thờ thiêng
liêng hay như một nơi thánh tích vậy. Trong khi toàn bộ căn nhà phủ một
lớp bụi thời gian thì riêng trong phòng nghe nhạc, dường như dòng thời
gian mới ngừng lại ít phút đây thôi. Căn phòng được sắp đặt hoàn hảo.
Không có lấy một mảy bụi nào bám trên những chiếc kệ, cái bàn được lau
bóng lộn đến mức lấp lánh có thể soi gương.
Con Miles bước vào nằm dưới chân tôi. Tôi vuốt đầu nó vài cái. Nó là
một con chó cô đơn kinh khủng và không thể chịu đựng được sự cô độc lâu
hơn nữa. Người ta đã dạy cho nó biết cách ngủ ở một cái giường riêng trong
xó bếp nhưng hầu hết thời gian nó cứ quanh quẩn bên chân ai đó, thản
nhiên nép mình vào thân thể người ta.