và tiếng cười lớn như thế, tôi hơi bị sốc khi nhận ra thanh âm dần trở nên
lắng dịu xuống như những gợn sóng trên mặt ao. Từ đó, tôi đoán ngờ ngợ
rằng đây không phải là loại người bình thường.
Tôi thở một hơi dài và sâu rồi bước xuống cầu thang, tiến vào hành lang
chính. Đế giày cao su của đôi giày thể thao rón rén đi từng bước trên sàn
gỗ. Khi đến chỗ phòng đợi, tôi lập tức rẽ trái và tiến thẳng xuống bếp. Tôi
bật đèn và lục tìm trong ngăn kéo một con dao phay chặt thịt to nặng. Ông
Casey là người rất mê nấu nướng và có một bộ dao làm bếp đắt tiền của
Đức. Lưỡi dao sáng quắc, không gợn vết nhơ ánh chiếu lên một vẻ khoái
lạc và chân chính trong tay tôi.
Nhưng khi tôi thử hình dung ra cảnh tượng mình bước vào một bữa tiệc
vui nhộn mà nắm chặt một con dao phay chặt thịt to tướng trên tay, tôi
nhanh chóng nhận ra đó là một ý tưởng tệ hại. Tôi mở vòi, rót một ly nước
và trả lại con dao phay vào ngăn kéo.
Nhưng đợi đã, chuyện gì đã xảy ra với con chó vậy?
Lần đầu tiên, tôi nhận ra không thấy bóng dáng của con Miles đâu cả.
Nó không còn nằm trên cái nệm đặt trên sàn. Miles đã đi đâu nhỉ? Không
phải nhiệm vụ của nó là sủa gâu gâu khi có người đột nhập vào nhà giữa
đêm khuya sao? Cúi người xuống, tôi thử sờ vào chỗ lõm xuống của tấm
nệm mà Miles thường hay nằm, giờ đây đã phẳng phiu. Không còn một
chút nào hơi ấm. Dường như Miles đã rời khỏi giường và đi đâu từ lâu lắm
rồi vậy.
Tôi rời khỏi bếp, bước vào phòng đợi và ngồi xuống chiếc ghế dài ở đó.
Tiếng nhạc và những câu chuyện vẫn tiếp tục không ngừng. Như những con
sóng, chúng cồn lên từng chặp rồi lại chìm vào yên tĩnh, nhưng không bao
giờ ngừng lại hoàn toàn. Có bao nhiêu người trong đó? Ít nhất phải mười
lăm người. Hay có lẽ nhiều hơn, khoảng hai mươi người gì đó. Dù sao đi
nữa, dường như căn phòng khách lớn kia chứa đầy những người là người.