hiện một cái đầu khác. Trên chiếc đầu hói này là vành mũ miện bằng vàng,
răng thưa; trên trán có một nốt loét tròn ăn sâu vào da bôi thuốc cao; chiếc
miệng móm không còn răng với vành môi dưới trễ xuống một cách đỏng
đảnh. Pilat cảm thấy đã biến đi đâu mất những chiếc cột tròn màu hồng của
ban công, những mái nhà của thành phố Iersalaim ở phía dưới xa sau khu
vườn, và tất cả chung quanh chìm ngập trong màu xanh rậm rì của những
khu vườn Kápreia. Và bên tai nghe vẳng lên một cái gì đó kỳ lạ, dường như
từ một nơi nào rất xa vọng lại tiếng kèn đồng không to lắm nhưng đầy đe
dọa và một giọng mũi ngạo mạn kéo dài những từ: “Luật trừng trị tội phạm
thượng…”.
Trong đầu vụt lướt qua những ý nghĩ ngắn ngủi, rời rạc và khác
thường: “Hắn ta chết rồi!” rồi tiếp đó: “Tất cả chết rồi…” và cùng với chúng
là một ý nghĩ kỳ quái nào đó về sự bất tử nhất thiết cần phải xảy ra “với ai?”
nhưng không hiểu sao sự bất tử đó lại gợi nên một nỗi buồn không thể chịu
đựng nổi.
Pilat tập trung ý chí, xua đuổi ảo giác, bắt ánh mắt nhìn trở lại ban
công, và trước mặt ngài lại hiện ra đôi mắt của người bị bắt.
“Này Ha-Notxri, nghe đây”, quan tổng trấn cất tiếng, nhìn chằm chằm
vào Iesua một cách lạnh lùng; vẻ mặt ngài đằng đằng sát khí, nhưng đôi mắt
lại bồn chồn lo âu, “nhà ngươi có bao giờ nói về đức Hoàng Ðế
vĩ đại
không? Trả lời đi? Có nói không?… Hay là… không… nói?” Pilat kéo dài
từ “không”, hơi dài hơn so với mức cần thiết ở trên phiên tòa xét xử, và
trong ánh mắt gửi cho Iesua, dường như ngài muốn gợi lên trong đầu người
bị bắt một ý nghĩ nào đó.
“Nói sự thật bao giờ cũng nhẹ nhõm và dễ chịu”, người bị bắt nhận xét.
“Ta không cần biết”, Pilat đáp lại bằng giọng dữ tợn cố nén lại, “là nhà
ngươi dễ chịu hay không dễ chịu khi nói sự thật. Nhưng nhà ngươi buộc
phải nói sự thật đó ra. Tuy nhiên khi nói hãy cân nhắc từng từ, nếu như nhà
ngươi không muốn một cái chết không những không tránh khỏi mà còn đau
đớn.”