Dookmali (Đoọc-ma-li) trong tiếng Thái nghĩa là hoa nhài.
“Hai” trong tiếng Nhật là phải, vâng.
Món thịt sawan (xạ-oắn), tiếng Thái nghĩa là thiên đường, ý nói mùi vị
món ăn rất ngon.
Trong giao tiếp bằng tiếng Thái, người nói có thể nói trống không,
lược đi chủ ngữ, hoặc không cần nhắc đến người đối thoại, nhưng để cho
lịch sự, lễ phép thì phải có từ khrắp/kha (nghĩa là ạ) ở cuối câu, hoặc ít ra
cũng phải kéo dài, đưa giọng cho nhẹ nhàng.
Từ “kekkou” trong tiếng Nhật rất đa nghĩa, ở đây hiểu là đẹp tuyệt vời.
Kobori muốn chơi chữ: vừa nói đến thành phố Nikkou, tỉnh Tochigi, một
địa danh du lịch nổi tiếng của Nhật Bản với bề dày lịch sử văn hóa 800 năm
và phong cảnh thiên nhiên hữu tình. Đồng thời, nikkou còn có nghĩa là ánh
mặt trời, trùng với tên Angsumalin. Kobori mượn việc ca ngợi sự tươi đẹp
của vùng đất Nikkou để khen vẻ đẹp của Angsumalin.
“Tian” trong tiếng Thái phát âm là “Tên” có nghĩa trống trơn, bằng
phẳng.
Ngôi đền Nikkou Toshogu là một quần thể đền chùa tập trung những
giá trị văn hóa trọng yếu của Nhật Bản cả và tôn giáo, tín ngưỡng và kiến
trúc, được coi là quốc bảo và đã được UNESCO công nhận là di sản văn
hỏa thế giới năm 1999.
Xã hội Thái Lan xưa không cho phép phụ nữ Thái được kết hôn với
người từ dân tộc và tôn giáo khác (khác với đạo Phật là quốc giáo của Thái
Lan) nhằm quản lý chặt dân cư và đảm bảo dân chúng trung thành với triều
đình, không để thất thoát nguồn nhân lực cho những dân tộc khác. Các Bộ
luật năm 1633 hay 1663 trong thời kỳ Ayuthaya còn quy định hình phạt tử
hình với những phụ nữ vi phạm, hoặc xử phạt rất nặng với những gia đình
cho phép con gái kết hôn với người nước ngoài. Đến thế kỷ 19, quan niệm
xã hội đã cởi mở hơn cùng với việc trao đổi, giao thương với nước ngoài
gia tăng. Luật pháp cũng nới lỏng, lần đầu tiên cho phép người Thái kết