mắt và vài cái chai có dán nhãn. Aspirin, bột boracic, thuốc đỏ, băng cá nhân
v.v… Trên một kệ riêng chứa nhiều insulin, hai kim tiêm và một chai rượu
mạnh dùng cho phẫu thuật. Trên kệ thứ ba có một chai ghi ‘Thuốc viên –
uống một hay hai viên vào buổi tối theo chỉ dẫn’. Trong kệ này ắt đã chứa
chai thuốc nhỏ mắt. Tất cả đều rõ ràng, sắp xếp ngăn nắp, rất dễ lấy thuốc
khi cần, và cũng rất dễ lấy để giết người.
Tôi có thể làm gì tùy thích với mấy cái chai sau đó đi ra nhẹ nhàng và
xuống thang lầu, không một ai biết tôi đã ở trên này. Dĩ nhiên, không có gì
mới, nhưng nó làm cho tôi hiểu công việc của cảnh sát khó khăn đến thế
nào.
“Hãy làm cho họ nói hươu nói vượn,” Taverner đã bảo tôi. “Khiến cho họ
nháo nhào. Làm cho họ nghĩ chúng ta đang tìm ra cái gì đó. Giữ cho ta nổi
đình nổi đám. Nếu chúng ta làm như vậy, sớm muộn gì kẻ giết người cũng
sẽ thôi đề phòng và tìm cách chứng tỏ hắn khôn ngoan hơn – thế là – chúng
ta tóm hắn.”
Được rồi, cho đến giờ kẻ giết người không phản ứng theo kiểu đó.
Tôi ra khỏi phòng tắm. Vẫn không có một ai. Tôi đi dọc hành lang. Đi
ngang qua phòng ăn tối bên trái, phòng ngủ và phòng tắm của Brenda bên
phải. Một cô người làm đang từ đó đi ra. Cửa phòng ăn tối đóng. Bên trong
phòng, vọng ra tiếng bà Edith de Haviland gọi điện thoại cho bà bán cá quen
thuộc. Một dãy bậc thang xoắn đưa xuống tận tầng trệt bên dưới. Tôi đi
thang lên trên. Phòng ngủ của bà Edith và phòng khách ở đây, tôi biết, còn
có hai phòng tắm và phòng của Laurence Brown. Bên kia là những bậc
thang ngắn dẫn xuống một phòng lớn nằm phía sau khu vực dành cho người
hầu được dùng làm phòng học.
Tôi đứng lại ngoài cửa. Tôi nghe Laurence Brown lên giọng nhẹ bên
trong. Tôi liền nghĩ mình đã nhiễm cái tật rình mò của Josephine. Không
một chút ngại ngùng, tôi nghiêng người áp vào cửa và lắng nghe.
Đó là một bài học về lịch sử, thời gian đang nói là thời Đốc chính ở Pháp.
Càng nghe tôi càng ngạc nhiên. Một sự ngạc nhiên đáng kể khi tôi khám
phá Laurence Brown là một thầy giáo tuyệt vời.