xông xuống doanh trại Pháp, dù chỉ để đánh đuổi mấy con chó Mingo đang
rình mò ven đám cây bulô kia.”
“Chúng tôi có đủ can đảm,” Cora cứng cỏi đáp, “trước tình thế này,
chúng tôi sẵn sàng đi, bất chấp nguy hiểm.”
Người trinh sát quay về phía nàng, cười tỏ vẻ tán thưởng thành thực và
nhiệt liệt, bác nói:
“Ước gì tôi có được một ngàn người có đôi bắp tay bắp chân nở nang,
đôi mắt tinh nhanh và không sợ chết như cô! Chỉ trong vòng tuần lễ, tôi sẽ
dồn về tận hang ổ bọn Pháp ba hoa, mặc cho chúng kêu gào như lũ chó bị
cùm hay bầy sói đói. Nhưng ta đi thôi.” Mắt Chim Ưng quay sang những
người khác, nói tiếp: “Đám sương mù đang tỏa xuống nhanh; chúng ta chỉ
có đủ thời giờ để gặp nó ở dưới đồng bằng và dùng nó làm bức màn che.
Hãy nhớ là nếu tôi gặp tai nạn thì cứ đi về hướng có gió thổi vào má trái,
hoặc tốt hơn hết là cứ bám sát hai người Mohican; họ sẽ tìm thấy đường, dù
ban ngày hay ban đêm.”
Nói xong, bác vẫy tay ra hiệu cho mọi người đi theo rồi lao mình xuống
núi dốc ngược, chân bước nhanh nhưng vẫn thận trọng. Heyward vừa đi
vừa dìu hai chị em Cora, lát sau đã tới chân quả núi mà trước đó họ đã vất
vả khó nhọc leo lên.
Theo hướng đi của Mắt Chim Ưng, chẳng bao lâu cả đoàn đã xuống tới
đồng bằng, gần đối diện với một cái cửa xuất kích phá vây ở lũy phía Tây
của pháo đài Anh; Mắt Chim Ưng dừng lại cho Duncan và chị em Cora tới.
Khoảng cách từ chỗ này tới pháo đài chừng tám trăm thước. Mọi người đi
khá nhanh và nhờ đường đất bằng phẳng, họ đến trước đám sương mù đang
chậm chạp tỏa xuống mặt hồ. Cần phải tạm nghỉ cho tới khi màn sương xốp
phủ kín doanh trại Pháp. Tranh thủ thời gian, hai cha con người Mohican
trườn ra khỏi cánh rừng, quan sát xung quanh; người trinh sát đi theo phía
sau để kịp nghe họ báo cáo lại, đồng thời bác cũng muốn đích thân theo dõi
tình hình địch.