chúng tôi mọi thuận lợi để quan sát những cộng sự của các ngài và cũng
như các ngài, chúng tôi biết rõ tình trạng suy sụp của chúng.”
“Hãy hỏi viên tướng Pháp là ống nhòm của ông ta có nhìn tới sông
Hudson không,” Munro thách thức nói, “và liệu ông ta có biết sẽ gặp quân
của tướng Webb ở đâu và vào lúc nào không?”
“Xin nhường cho tướng Webb thông ngôn hộ.” Viên tướng Pháp đa mưu
túc trí vừa nói vừa chìa cho Munro một bức thư để ngỏ, “Đọc thư này, ngài
sẽ thấy rằng những hoạt động quân sự của ông ta không gây trở ngại cho
quân đội của tôi.”
Không chờ Duncan dịch, người quân nhân già vội vàng cầm lấy, một cử
chỉ chứng tỏ ông rất quan tâm tới nội dung lá thư. Trong lúc đôi mắt lướt
nhanh trên những dòng chữ, nét mặt Munro chuyển từ hiên ngang sang
buồn rầu ủ rũ, đôi môi ông run run và trong khi lá thư rời khỏi tay, đầu ông
gục xuống ngực như một người đột nhiên mất hết hy vọng. Duncan nhặt
thư liếc vội những dòng chữ ác nghiệt, không kịp xin lỗi về cử chỉ đường
đột của mình. Người chỉ huy của Munro và Heyward không những không
khuyến khích họ cố thủ mà còn khuyên họ sớm đầu hàng, nói thẳng ra rằng
không thể cử được một người, nào tới cứu viện.
“Không còn nhầm gì nữa!” Duncan thết lên, tay lật đi lật lại tờ giấy,
“Chữ ký của tướng Webb đây, đúng là bức thư bị mất.”
“Con người ấy đã phản bội ta!” Munro chua chát kêu to, “Ông ta đã làm
mất danh dự cho một gia đình chưa hề biết tới sự ô nhục và đã bôi tro trát
trấu lên mái đầu bạc của ta!”
“Xin ngài chớ nói thế!” Duncan lên tiếng, “Chúng ta vẫn làm chủ pháo
đài và giữ được danh dự của chúng ta. Chúng ta có chết cũng làm cho đối
phương thấy rằng họ phải trả một giá quá đắt.”
“Ta cảm ơn con,” người quân nhân già sực tỉnh khỏi cơn bàng hoàng,
đáp, “lần này, con đã nhắc Munro nhớ tới bổn phận của mình. Chúng ta hãy
quay trở về đào sẵn mồ chôn chúng ta đằng sau những chiến lũy kia.”