vào mắt; nhìn lên khoảng không bao la cho dịu bớt căng thẳng, chỉ thấy
mây đen che kín bầu trời.
Gió thổi thất thường, lúc quét sạch mặt đất như rền rĩ bên tai giá lạnh của
người chết, khi vọt lên cao thành tiếng rít thảm sầu, rồi bay vào rừng, cuốn
theo từng đám lá và cành cây. Những con quạ đói vật lộn với những cơn
lốc, và ngay sau khi bay ra khỏi biển rừng xanh um trải dài dưới cánh,
chúng liền sà xuống, lăn xả vào bàn tiệc gớm guốc.
Tóm lại, cảnh vật thật hoang vu hiu hắt, tưởng như tất cả những ai đã
dám xâm phạm tới đều bị thần Chết thẳng tay đánh gục. Nhưng bây giờ nơi
đây không còn là cấm địa nữa. Từ khi những kẻ gây ra những hành động
điên rồ làm cho quang cảnh càng thêm điêu tàn đã đi khỏi, lần đầu tiên thấy
có bóng người.
Khoảng chừng một tiếng đồng hồ trước khi tắt nắng của ngày thứ ba đã
nói ở trên, có năm người xuất hiện trước cửa rừng, ở chỗ có con đường
xuyên sơn đi về sông Hudson; họ tiến về phía những công sự hoang tàn.
Mới đầu, họ đi chậm chạp và dè dặt, như thể ghê tởm trước cảnh chết chóc
hoặc e ngại những chuyện hãi hùng tái diễn. Người đi đầu, dáng vẻ thận
trọng nhanh nhẹn của một thổ dân, leo lên các mỏm cao để quan sát và làm
hiệu chỉ cho những người đồng hành con đường đi mà anh ta cho là an toàn
nhất. Bốn người đằng sau cũng không thiếu sự thận trọng và phòng bị đối
với một cuộc chiến đấu trong rừng.
Một người cũng là Anh điêng, đi hơi lánh về một bên, luôn luôn nhìn về
ven rừng với con mắt từ lâu quen phát hiện nguy hiểm qua những dấu hiệu
nhỏ nhất. Ba người còn lại là da trắng; loại vải cũng như quần áo họ mang
trên người rất thích hợp với công việc đầy may rủi của họ là bám sát một
đoàn quân rút lui trong rừng rậm.
Cảnh tượng hãi hùng luôn luôn hiện ra trên đường đi tới bờ hồ Horican
đã có tác động khác nhau tới tính tình của mỗi người trong đoàn. Trong khi
bước nhanh qua cánh đồng, người thanh niên dẫn đầu chỉ dám liếc nhìn
những thây người què cụt, cố giữ trang nghiêm cho khỏi lộ xúc động, bởi
chưng anh còn quá ít từng trải để có thể hoàn toàn chế ngự tác động mãnh