nhiên như đối với xác một con vật. Người trinh sát hiểu ý, lại tiếp tục kể tội
viên chỉ huy Pháp với một giọng đầy căm hờn:
“Chỉ có một trí óc sáng láng và một quyền lực vô hạn mới đám giết sạch
ngần này mạng người, trí óc có sáng láng mới thấy được sự cần thiết phải
trừng phạt, và không có quyền lực thì làm sao có thể hủy bỏ những sinh vật
mà Chúa đã tạo ra! Tôi cho rằng giết một con hươu thứ hai trong lúc chưa
ăn hết con thứ nhất là có tội, trừ phi trong trường hợp hành quân hoặc mai
phục. Đối với chiến binh phải chiến đấu ác liệt mặt đối mặt với kẻ thù thì
vấn đề lại khác; dù là người da trắng hay da đỏ, họ sinh ra để chết với khẩu
súng hoặc chiếc rìu trong tay… Uncas, đi lại đằng này, mặc cho bầy quạ rỉa
xác tên Mingo. Bác có kinh nghiệm là loài quạ ưa thích thịt của bọn
Oneidas; vậy cứ để cho chúng thỏa mãn cơn thèm.”
Bỗng người thanh niên Mohican kêu lên một tiếng, kiễng chân nhìn
chằm chằm về phía trước khiến lũ quạ hoảng sợ bay đi tìm mồi nơi khác.
“Cái gì thế, cháu?” người trinh sát hỏi khẽ, thân hình cao lớn thu lại như
con chó sắp vồ mồi, “Phải chăng Chúa dẫn đến cho chúng ta một tên lính
Pháp đi lang thang kiếm chác. Bác dám chắc hôm nay cây Sát Hươu này sẽ
bắn xa hơn mọi ngày.”
Không đáp, Uncas nhảy vọt lên trước, lát sau đã thấy lôi ở trong bụi ra
một mảnh chiếc khăn quàng xanh đi đường của Cora, vung lên một cách
đắc thắng. Nhìn cử chỉ vung vẩy của Uncas và thấy anh thốt lên một tiếng
kêu nữa, mọi người ùa tới.
“Con ta!” Munro như điên như dại vội kêu lên, “Hãy trả con cho ta!”
“Uncas sẽ cố gắng.” Câu trả lời ngắn gọn và thắm thiết.
Munro hầu như không nghe thấy lời cam kết giản dị nhưng đầy ý nghĩa.
Ông cầm mảnh khăn nắm chặt trong tay, cặp mắt hãi hùng nhìn vào đám
bụi rậm như vừa lo vừa hi vọng phát hiện ra những bí mật ẩn náu bên trong.
“Không thấy có người chết ở đây,” Heyward nói, “dường như cơn phong
ba bão táp không đi qua chốn này.”