bị lộ. Còn gỗ đá không in dấu giày moccasin. Giá như các vị đi giày ống
nhà binh thì có thể còn có điều phải lo ngại, nhưng với đôi giày da hươu
làm riêng cho trường hợp này, nói chúng ta có thể đi trên đá an toàn. Uncas,
đẩy xuồng vào gần bờ nữa đi, kẻo cát ở đây in dấu cũng rõ như bơ của
người Hà Lan ở Mohawk. Nhẹ tay, cháu! Nhẹ tay thôi! Không được để
xuồng chạm bờ kẻo lũ quỷ quái sẽ biết chúng ta rời khỏi nơi đây bằng
đường nào.”
Anh thanh niên da đỏ làm đúng yêu cầu, người trinh sát kiếm trong đống
hoang tàn một tấm ván, bắc lên xuồng và ra hiệu cho hai sĩ quan bước
xuống. Xong xuôi, mọi vật đều được xếp đặt lại như cảnh hỗn độn ban đầu.
Rồi Mắt Chim Ưng cũng trèo lên chiếc xuồng con làm bằng vỏ cây bulô, cố
không để lại một dấu vết gì mà bác có vẻ rất ngại. Heyward ngồi yên; chỉ
khi hai người Anh điêng đã thận trọng chèo khá xa pháo đài và khi bóng
đen của những quả núi ở phía Đông đã phủ rộng lên mặt hồ trong vắt, anh
mới cất tiếng hỏi:
“Tại sao lại phải ra đi lén lút vội vã như thế này?”
“Nếu máu của một tên Oneidas có thể nhuốm đỏ dòng nước trong vắt
trên đó xuồng chúng ta đang bơi thì đôi mắt của anh sẽ trả lời câu hỏi anh
vừa đặt ra.” Người trinh sát đáp. “Anh đã quên con rắn độc đi rình mò tối
qua và bị Uncas giết rồi sao?”
“Đâu có. Nhưng nghe nói là nó đi một mình, và người đã chết không
khiến cho ta phải sợ hãi.”
“Phải, nó làm công việc xấu xa đó một mình! Nhưng một người Anh
điêng thuộc một bộ lạc có nhiều chiến binh chẳng mấy khi phải lo ngại máu
của mình đổ mà không được bạn bè trả thù cho ngay.”
“Nhưng sự có mặt của chúng tôi… Quyền uy của đại tá Munro cũng đủ
để kiềm chế sự giận dữ của các đồng minh da đỏ của chúng ta, nhất là trong
những trường hợp này, tên khốn kiếp rất đáng phải chịu số phận đó. Mong
rằng bác không đi chệch một bước ra ngoài con đường thẳng của chúng ta
vì một lý do đơn giản như vậy.”